No. 0014 Theravada Buddhism in Nepal
Phật Giáo Nam Tông tại Nepal viết bởi Kondanya, Sanharam
Theo tài liệu lịch sữ lưu giữ ở Nepal, sau khi xã hội bị thống trị dưới thơì vua Jayasthiti Malla, đạo phật trên đà tàn phá và huỹ diệt. Tỳ kheo Mahaprajna, sinh ra trong một gia đình Bà La Môn, sau đó trở tha`nh ngưoì đầu tiên quy y và thọ giới tử vào năm 1924 bởI một nhà sư Tây Tạng nổi tiếng, tỳ kheo Tsering Norbu ở Kathmandu. Suốt cuối thơì kỳ thủ tướng Chandra Shamsher Jung Bahadur Rana, Luật lệ của Nepal cực kỳ nghiêm cấm
sự đỗi đạo và niềm tin. Tỳ kheo Mahaprajna đã bị trục xuất ra khỏi Nepal cùng vơí bốn tu sĩ tây tạng. khác. Tỳ kheo Mahaprajna sau khi bị trục xuất đã trỡ thành một nhà sư Nam Tông vào năm 1928 tại Kushinara với hoà thượng U.Chandra Mani Mahathera ngườI Miến Điện. va` sau đó tỳ kheo. Bhikshu Mahaprajna Thera, mợt nhà sư ngườI epal đầu tiên trong thơì kỳ hiện đại.
Đây là thơì điễm thịnh hành cho các nhà sư và ni cô của nền Phật Giáo Nguyên Thủy. Vị tỳ kheo đầu tiên xuất hiện trên đuờng phố của Kathmandu vào năm 1930, đó là tỳ kheo Bhikshu Prajnananda. Sau đó Praijnananda, Subodhananda, Buđaghosh trỡ thành nhà sư luôn. Tưong tự như vậy, Ratnapali, Dharmapali và Sanghapali đã xuất hiện như là những nữ tu sĩ Phật Giáo đầu tiên .
Vào năm 1943, tỳ kheo Dhammalok thành lập thiền viện Anandakuti Vihara tọa lạc tạI phía tây của Swayambhu Hill gần KTM. Đây là Thiền Viện Nam Tông đầu tiên trong thoì kỳ hiện đạI cũa Nepal. Vì theo lịch sữ cuã thiền viện Anandakuti Vihara, Hòa Thượng Narada Mahathera mang xá lợI Đức Phật cùng vớI cành cây của cây Bồ Đề năm xưa Đức Phật thành đa.o từ Anuradhapur, Tích Lan. Những xá lợI Phật đó đã bị đánh cắp một vài năm về trước và được thay thế những xá lợI khác từ Tích Lan.
Vào năm 1994, Thủ Tướng Juđha Shamsher J.B Rana đã triệu tập 8 nhà sư sống tạI KTM lúc đó là tỳ kheo Bhikshus Prajnananda, Dhammaloka, Subodhananda, Prajnarashmi và Samaneras Prajnarasa, Ratnajyoti, Aggdhamma, ngài Kumar ( Chủ tịch cũa tất cã hộI đoàn ỡ Nepal đã hạ lệnh cho tất cã phật tữ thờ phụng giáo pháp cũa Đức Phật. Nhưng các nhà sư đã từ chốI một cách thẵng thừng. Chính vì thế, vị thũ tướng đương thờI nghiêm ngặt ra lệnh các nhà sư naỳ rờI khõi đất nước trong vòng 3 ngày. Trong thơì điễm này, tỳ kheo Amritananda đang ơ Saranath , Ấn Độ.
Tất cã đến Saranath từ Nepal thành lập một nhóm xã hộI Phật Giáo đầu tiên cuã Nepal gọI là “Dharmodaya Sabha” dướI sự điều hành cũa Hoà Thượng U.Chandra Muni Mahathera. Nhóm xã hộI vẫn còn tồn tạI và là môt tỗ chức phật giáo lớn nhất trên thế giới. ĐạI hộI Phật Giáo thế giơí lần thứ 4 và lần thứ 15 đã được tỗ chức tạI KTM và đã 5 lần tổ chức Quốc hộI Phật giáo toàn quốc trong nhiều vùng khác nhau cũa Nepal.
Tỳ kheo kiêm bác sĩ Amritananda là hình tượng lý tưỡng mẫu mực của Phật Giáo Nam Tông ỡ Nepal. Hoà thượng là 1 học giã Phật Giáo xuất sắc đã viết nhiều Tác phẫm xuất sắc cho Phật Giáo. Ngài còn là một Nhà Sư nổI tiếng của quốc tế. Ngài là 1 bực thánh nhân và cũng là 1 hình ảnh tiêu biễu cũa Phật Giáo Thế Giới. Trong thờI ngài còn sống, vào tháng tư 1946, ngài đã hành hương sang Nepal nhằm truyền đạo từ Tích Lan ( Hòa Thượng Naranda Mahathera lúc đó đang là thượng thũ. Cuộc truyền giáo chĩ đuợc phép thăm những di tích Phật Giáo nhưng không đuợc phép truyền giáo và lien lạc vớI các nhà sư khác. VớI sự giúp đõ cũa tỳ kheo Amritananda, đoàn đạI biễu Phật Giáo Tích Lan đã gặp Thủ Tứơng Padma Shamsher J.B. Rana và vị thủ tướng này đã cho phép tỳ kheo Dhammalok cũng như các nhà sư khác được phép trỡ về Nepal.
Và sau đó giáo hộI phật giáo thống nhất Nepal ( ALL NEPAL BHIKKU ASSOCIATION) đuợc sáng lập bởI tỳ kheo kiêm bác sĩ Amritananda, tạI Anandakuti Vihara vào năm 1951. vào thờI gian đó trụ sỡ ANBA đuợc đặt tạI Vishwa Shanti Vihara tạI New Baneshwar-Min Bhavan, Kathmandu. Vào thơì điễm đó có sự hiện diện cuả 18 vị tỳ kheo Nam Tông trong thung lũng KTM và 55 bên ngoài thung lũng. Chĩ có 4 thiền viện cao cấp tột bực như Thiền viện Anandkuti Vihara-Swayambhu, Sumangala Vihara-Lalitpur, trung tâm phật giáo thiền định quốc tế Shankhamul và Nagar mandapa Srikêerti Vihara Kêertipur.
Nepal có khoãng 140 nhà sư Nam Tông, vị lớn tuỗI nhất là ĐạI lão Hòa thượng Aniruđdha Mahathera 83 tuỗI, và 60 thượng toạ. Những vị cao niên kế tiếp bao gồm: Thượng toạ Subodhananda, Buđdaghost, Chunda, Ashwaghost, Kumar Kashyapa vân vân…
Có 120 tỳ kheo ni, vi. Ni cao niên nhất là Sư Bà Sushila, Sư bà đương kiêm là trụ trì chuà của nữ thiền viện Dhammavati. Ngoài ra còn có Ni sư Dhammavati là phó chủ tịch cũa HộI tăng ni toàn quốc Ni tạI Nepal. Có vào khoãng 50 nhà sư và tỳ kheo ni đang học tạI Tích Lan, Miến Điện, ThaiLand, Đài Loan, Anh quốc, Và Hoa Kỳ. Phần lớn những nghiên cứ sinh lâu năm tốt nghiệp từ TíchLan và Miến Điện.
Tỳ kheo Aswaghosh, Jnanapurnika, sudarshan và tỳ kheo ni Dhammavati là những hình ảnh biểu tượng cho phật giáo Nepal hiện nay.
Tỳ kheo Ashwaghost là 1 học giã và tiếng noí ảnh hưởng sâu đậm tạI Nepal. Ngài là thành viên của thượng nghị viện Nepal và là phó chủ tịch của trung tâm phát triễn Lâm Tỳ Ni. Ông ta thành lập trường phật học Bhikshu tạI Chhetrapati – Dhalko, tạI KTM. Đó là trung tâm đào tạo tăng ni đầu tiên tạI Nepal. thiền viện mớI xây dựng mớI nhất là thiền viện Vihara rất hấp dẫn và hiên đạI xây dựng bởI Mã Lai Á, Tân Gia Ban vớI sự hợp tác cũa 1 số ngườI Nepal. Thiền Viện naỳ được trụ trì bỡI Tỳ kheo Jnapurnika. Gần đây, vị tỳ kheo này trường đào tạo phật giáo cho những vị sư nhõ tuỗI (15) bao gồm cã 2 vị nữ tu sĩ đang học tạI đây đặc biệt vệ Phật Giáo. Các nghiên cứu sinh này cũng là sinh viên của các trường công lập.
Tỳ kheo kiêm giáo sư Bhikshu Sudarshan là 1 học giã nổI tiếng về lý luận và thuyết giãng. Ngài là 1 nhà văn học, Lịch Sữ và khảo cỗ học. Ngài là giáo sư cũa trường đạI học tribhuvan. Ngài là 1 trong những vi tăng nỗI bật tạI Nepal. NổI tiếng nhất là sự bão quạn và phát huy ngôi chùa Nagara Mandapa Sri Kêerti Vihara. Ngôi chuà mang hình sắc Thái Lan đuợc xây dựng bỡI sự quyên góp cũa các phật tữ ThaiLan và Nepal.Tỳ kheo ni Dhmavati là 1 vị nữ tu sĩ rất nỗI tiếng tạI Nepal. Vị tỵ kheo ni ỡ tạI nữ thiền viện Dharmakêerti tạI KTM. Vị tỳ kheo này có khoãng hơn 28 tỳ kheo ni trong thiền viện của bà. Bà đã hoàn thành xây dựng “thiền viện Gautami” tạI Lâm Tỳ Ni., vưà được khánh thành. Tương tự như thế, tỳ kheo Sumanagala xây dựng căn bãn Phật Giáo trong thơì đạI Banepa và Ven. Tỳ kheo Maitri lãnh đạo 1 bệnh viện cho những vùng ngoạI thành nghèo khổ dướI sự giúp đỡ cũa quyền hạn chủ tịch cuả hộI phật giáo quốc tế tạI Vườn Lâm Tỳ Ni.
Trong 3 thập niên qua, Nepal Bauđdha Pariyatti Shiksha ( còn gọI là trường Phật giáo Chủ Nhật) đã được sự dìu dắt của giáo hộI phật giao’ thống nhất Nepal.
Hiện nay, trụ sỡ cũa Giáo HộI này được đặt tạI Manimandapa Vihar, tạI Patan. Giáo HộI có nhiều chi nhánh trên nhiều vùng khác nhau cũa Nepal. 2 tạp chí phật giáo hang tháng đã được xuất bản bởI các tỳ kheo. 1 Tạp chí Phật Giáo tên là “DHRMAKÊERTI”, tổng biên tập là tỳ kheo Ashwaghosh và 1 tạp chí khác “ANANDABHƠMI”, mà tổng biên tập là Tỳ kheo Kurma Kashyapa. Các tỳ kheo bắt đầu xuất bản dướI nhiều dạng khác nhau: Sách vỡ, tạ.p chí và nhiều hình thức khác tuỳ theo nhu cầu và khiá cạnh của Phật Giáo.
Suốt tháng Bhadra ( từ tháng 8 đến tháng 9), tất cả phật tử tụng kinh và cầu nguyện cho hoà bình và sự than aí vào buỗI sang và buỗI chiều tạI Thiền Viện Viharas. Quý chư Tăng Ni tưởng nhớ công đức của Đức Phật bằng những buỗI tụng kinh sang và chiều
Những Bài kinh Thần thánh đuợc tụng và các phật tử cầu nguyện cho Hoà Bình và may mắn cho những gia đình phật tữ thuần thành.
Tu thiền, Thuyết giảng, và những chương trình đạc biệt đuợc tỗ chức trọng thể trong những ngày rằm tụ tập rất nhiều dân chúng. Quý vị tăng ni được mơì đến nhà phật tử và ngay cã nhửng gia đình ngoạI đạo.
Ngày Phật Đản sanh được tỗ chức trọng thễ vào tháng Veshakh (Rằm tháng 5 mỗI năm)
Sát sanh hoặc ăn thịt động vật bị cấm triệt đễ trong ngày này. Lễ mừng Phật Đãn sanh kéo dài hang tuần trên mọI phần khác nhau cũa đất nước.1 sự di chuyễn thành từng đoàn phật tữ được diễn hành trong đêm trăng rằm đặc biệt này.
Ca’c chuơng trình phát thanh về đơì sống và công cuộc tu tập cũa Đức Phật được chiếu trên NTV và Đài Phát Thanh mỗI tuần bởI các tỳ kheo. Đặc biệt công việc trùng tu và bảo quãn các thiền viện đuợc quan tâm trong nhửng ngày lễ Phật Giáo.
Dịch giả: DươngTiêu
Theravada Buddhism in Nepal
By Kondanya, Sangharam. (Executive member of All Nepal Bhikshu Association)
According to the recorded history of Nepal, after the social reforms carried but by King Jayasthiti Malla, Buddhism was on decline. Venerable Mahaprajna, a Hindu by birth, then became the first person to be ordained as the Buddhist monk in 1924. A famous Tibetan Lama ordained him. Ven. Tsering Norbu in Kathmandu. During the Prime Ministership of late Chandra Shamsher Jung Bahadur Rana, the law of Nepal strictly banned conversion or prosetylization. Ven. Mahaprajna was expelled from the country along with other four Buddhist Lama - monk. The Ven. mahaprajna in exile became Theravadian monk in 1928 at Kushinara with the most Ven. U. Chandra Mani Mahathera (Burmese). Late Ven. Bhikshu Mahaprajna Thera, the first Nepalese Theravadian Buddhist monk of modern Nepal. This in course of time gave rise to the Theravadian Buddhist monk and nun. The first Theravadian Buddhist monk appeared in the street of Kathmandu in 1930, he was Ven. Bhikshu Prajnananda. Late Venerables Prajnananda, Shakyananda, Dhammaloka, Amritananda and Venerables Anuruddha, Subodhananda, Buddhaghosh became monk too. Like wise Ratnapali, Dharmapali and Sanghapali appeared as first Buddhist Nuns. In 1943, Ven. Dhammalok established Anandakuti Vihara, which is located at the western side of Swayambhu Hill near KTM. This is the first Theravadian Buddhist monastery in Modern Nepal. For the historical Anandakuti Vihara, the most Ven. Narada Mahathera brought sacred relics of Lord Buddha along with a sapling of the Sri Mahabodhi Tree from Anuradhapur, Sri Lank. Those sacred relics had been stolen few years back and replaced another sacred relics from Sri Lanka. In 1994, the then Prime Minister Juddha Shamsher J.B. Rana summoned eight monks living then in KTM were Ven. Bhikshus Prajnananda, Dhammaloka, Subodhananda, Prajnarashmi and Ven. Samaneras Prajnarasa, Ratnajyoti, Aggadhamma, Kumar (Chirman of All Nepal Bhikkshu Association in present time) and ordered them not to preach the Dhamma. The monks refused to yield to the order. The Prime Minister strictly ordered them to leave the country within three days. In those days Ven. Amritananda was at Saranath in India. All monks from Nepal arrived at Saranath and they formed the first Buddhist Society of Nepal called “Dharmodaya Sabha” under the chairmanship of the most Ven. U. Chandra Muni Mahathera. This society still exists and it is the biggest National Buddhist Society of international level. It had completed the 4th and 15th World Fellowship of Buddhist (WFB) conference held in KTM and it was finished five times National Buddhist Congress in various parts of Nepal. Ven. Dr. Amritananda was the towering personality of Theravada Buddhism in Nepal. He was prominent Buddhist scholar and had written many volumes on Buddhism. He is well known International Buddhist monk of Nepal. He was well-known Hero and also a leading figure in Buddhist society. During his time, in April 1946, visited Nepal a good will mission from Sri Lanka. (Ven. Narada Mahathera was the head) The mission was allowed to visit places of Buddhist pilgrimage but did not have the permit to preach the Dhamma and not to interact with other Buddhists. With the help of Ven. Amritananda, Srilankan delegation met the Prime Minister Padma Shamsher J.B. Rana and the Premier gave permission to Ven. Dhammalok and gradually other monks also were able to return from exile. Then after the ALL NEPAL BHIKKHU ASSOCIATION (Akhil Nepal Bikshu Mahasangh) was founded by Ven. Dr. Amritananda, at Anandakuti Vihara in 1951. In present time ANBA office is in Vishwa Shanti Vihara at New Baneshwar - Min Bhavan, Kathmandu. There at present 18 Theravadian Viharas in KTM Valley and 55 from outside the valley. There are only four “Seemas” (getting higher ordination or monkshood according to Buddhist rules and regulation is called - seema) such in Anandkuti Vihara - Swayambhu, Sumangala Vihara - Lalitpur, International Buddhist Meditation Centre Shankhamul and Nagar Mandapa Srikeerti Vihara Keertipur. Nepal has about 140 Theravadian monks, the eldest of them being the most Ven. Aniruddha Mahathera 83, and of 60 Vassavasa. Next to him in order of seniority are Venerables Subodhananda, Buddhaghosh, Chunda, Ashwaghosh, Kumar Kashyapa and so on. There are 120 nuns, the eldest of them being the Nun Sushila, she herself is chairperson and Nun Dhammavati is Vice-Chairperson of Nun Association, Nepal. There are about 50 monks and nuns are studying in countries such Srilanka, Myanmar, Thailand, and Taiwan (ROC). United Kingdom and U.S.A. Most of them are in Sri Lanka. Mostly senior scholar’s monks completed their study from Sri Lanka and Myanmar. Thai Land, Taiwan (ROC) UK and Most of them are in Sri Lanka. Most senior Scholars complete their study from Sri Lanke and Myamar. Venerable Aswaghosh, Jnanapurnika, Sudarshan and Nun Dhammavati are the leading figures of Theravada Buddhism in Nepal now. Ven. Ashwaghosh is an influential speaker and writer. He was a parliament member of Upper House of Nepal and Vice-Chairman of Lumbini Development Trust. He started Sangharam Bhikshu Training center at Chhetrapati - Dhalko, in KTM. It is the first monk training school. Ven. Jnanapurnika is influential speaker, translator, writer, and meditation master too. The newly constructed Vishwa Shanti Vihara is an impressive and modern monastery built by Malaysian and Singaporian devotees and in cooperation with some Nepalese. It is run under Ven. Jnapurnika. Redcently, he established Vishwa Shanti Bauddha Shikshalaya (school) where teenaged Samaneras (small monk or novice) 15 and including two nuns have been studying specially about Buddhism. They are also students of government school. Ven. Prof. Bhikshu Sudarshan is a well red and orator. He is literate, historian and archeologist. He is a teacher of the Tribhuvan University. He is rated highly among the monks in Nepal. He has well kept temple called Nagara Mandapa Sri Keerti Vihara. This impressive Thai style temple is built with donations given by mostly Thai Buddhist peoples and Nepalese too. Nun Dhammavati is the most popular nun in Nepal. She stays at Dharmakeerti nunnery in KTM. She has more than 28 nuns in her monastery. She’s completed building “Gautami Nunnery” in Lumbini, which was recently inaugurated. Like wise Ven. Sumanagala established Buddhist Home for the aged in Banepa and Ven. Maitri is running free clinic for the rural poor under his president ship of International Buddhist Society in Lumbini. Since last three decades, Nepal Bauddha Pariyatti Shiksha (Buddhist Sunday school) has been running under All Nepal Bhikkhu Association. At present time, Pariyatti Shiksha’s Central Office is at Manimandapa Vihar, in Patan. Various branches are in various parts of Nepal. Two Buddhist monthly magazines (half-early and annual also) are also being published by the monks. The titled of one of the magazine is ‘DHARMAKEERTI’, the editor in chief is Ven. Ashwaghosh and another magazine named “ANANDABHOOMI’ the chief editor is Ven. Kumar Kashyapa. The monks engage in publication of Books, booklet and the like which through light on defend aspects of Buddism. During the whole month of Bhadra (Aug-Sept) holy Buddhist hymns are chanted and prayers are held for peace and harmony in the morning and evening in Viharas (monastery) Buddha’s teachings are expounded. Every monks and nuns pay homage to the Buddha by chanting and praying every morning and evening. Meditation, lecture and special program are held in every Uposatha Day (like as fullmoon day, half moon day etc.) and gather lay people. Monks and Nuns are invited usually by inordined Buddhist by birth and non-Buddhist too. The holy hymns are chanted and prayers are held for peace and prosperity in the family of such people who though not ordained have deep faith in Buddhism. The Buddha’s Birth Anniversary that occurs in the month of Veshakh (May) every year on the full-moon night is celebrated by all people and communities with the same enthusiasm as the Buddhists in Nepal. Slaughter of animal for eating their meat is banned legally on that day. The celebrations last for a week in different parts of country. A Buddhist procession is taken out with people participating in the procession from all walks of life on the eve of the fullmoon night of the month of Ashadh (July-Aug) Talk programs highlighting the life and works of the Buddha are broadcast from NTV and Radio every week by monks. Cleaning programs are held in all the monasteries such as on the occasion of the Buddha anniversary and other special day.
Phật Giáo Nam Tông tại Nepal viết bởi Kondanya, Sanharam
Theo tài liệu lịch sữ lưu giữ ở Nepal, sau khi xã hội bị thống trị dưới thơì vua Jayasthiti Malla, đạo phật trên đà tàn phá và huỹ diệt. Tỳ kheo Mahaprajna, sinh ra trong một gia đình Bà La Môn, sau đó trở tha`nh ngưoì đầu tiên quy y và thọ giới tử vào năm 1924 bởI một nhà sư Tây Tạng nổi tiếng, tỳ kheo Tsering Norbu ở Kathmandu. Suốt cuối thơì kỳ thủ tướng Chandra Shamsher Jung Bahadur Rana, Luật lệ của Nepal cực kỳ nghiêm cấm
sự đỗi đạo và niềm tin. Tỳ kheo Mahaprajna đã bị trục xuất ra khỏi Nepal cùng vơí bốn tu sĩ tây tạng. khác. Tỳ kheo Mahaprajna sau khi bị trục xuất đã trỡ thành một nhà sư Nam Tông vào năm 1928 tại Kushinara với hoà thượng U.Chandra Mani Mahathera ngườI Miến Điện. va` sau đó tỳ kheo. Bhikshu Mahaprajna Thera, mợt nhà sư ngườI epal đầu tiên trong thơì kỳ hiện đại.
Đây là thơì điễm thịnh hành cho các nhà sư và ni cô của nền Phật Giáo Nguyên Thủy. Vị tỳ kheo đầu tiên xuất hiện trên đuờng phố của Kathmandu vào năm 1930, đó là tỳ kheo Bhikshu Prajnananda. Sau đó Praijnananda, Subodhananda, Buđaghosh trỡ thành nhà sư luôn. Tưong tự như vậy, Ratnapali, Dharmapali và Sanghapali đã xuất hiện như là những nữ tu sĩ Phật Giáo đầu tiên .
Vào năm 1943, tỳ kheo Dhammalok thành lập thiền viện Anandakuti Vihara tọa lạc tạI phía tây của Swayambhu Hill gần KTM. Đây là Thiền Viện Nam Tông đầu tiên trong thoì kỳ hiện đạI cũa Nepal. Vì theo lịch sữ cuã thiền viện Anandakuti Vihara, Hòa Thượng Narada Mahathera mang xá lợI Đức Phật cùng vớI cành cây của cây Bồ Đề năm xưa Đức Phật thành đa.o từ Anuradhapur, Tích Lan. Những xá lợI Phật đó đã bị đánh cắp một vài năm về trước và được thay thế những xá lợI khác từ Tích Lan.
Vào năm 1994, Thủ Tướng Juđha Shamsher J.B Rana đã triệu tập 8 nhà sư sống tạI KTM lúc đó là tỳ kheo Bhikshus Prajnananda, Dhammaloka, Subodhananda, Prajnarashmi và Samaneras Prajnarasa, Ratnajyoti, Aggdhamma, ngài Kumar ( Chủ tịch cũa tất cã hộI đoàn ỡ Nepal đã hạ lệnh cho tất cã phật tữ thờ phụng giáo pháp cũa Đức Phật. Nhưng các nhà sư đã từ chốI một cách thẵng thừng. Chính vì thế, vị thũ tướng đương thờI nghiêm ngặt ra lệnh các nhà sư naỳ rờI khõi đất nước trong vòng 3 ngày. Trong thơì điễm này, tỳ kheo Amritananda đang ơ Saranath , Ấn Độ.
Tất cã đến Saranath từ Nepal thành lập một nhóm xã hộI Phật Giáo đầu tiên cuã Nepal gọI là “Dharmodaya Sabha” dướI sự điều hành cũa Hoà Thượng U.Chandra Muni Mahathera. Nhóm xã hộI vẫn còn tồn tạI và là môt tỗ chức phật giáo lớn nhất trên thế giới. ĐạI hộI Phật Giáo thế giơí lần thứ 4 và lần thứ 15 đã được tỗ chức tạI KTM và đã 5 lần tổ chức Quốc hộI Phật giáo toàn quốc trong nhiều vùng khác nhau cũa Nepal.
Tỳ kheo kiêm bác sĩ Amritananda là hình tượng lý tưỡng mẫu mực của Phật Giáo Nam Tông ỡ Nepal. Hoà thượng là 1 học giã Phật Giáo xuất sắc đã viết nhiều Tác phẫm xuất sắc cho Phật Giáo. Ngài còn là một Nhà Sư nổI tiếng của quốc tế. Ngài là 1 bực thánh nhân và cũng là 1 hình ảnh tiêu biễu cũa Phật Giáo Thế Giới. Trong thờI ngài còn sống, vào tháng tư 1946, ngài đã hành hương sang Nepal nhằm truyền đạo từ Tích Lan ( Hòa Thượng Naranda Mahathera lúc đó đang là thượng thũ. Cuộc truyền giáo chĩ đuợc phép thăm những di tích Phật Giáo nhưng không đuợc phép truyền giáo và lien lạc vớI các nhà sư khác. VớI sự giúp đõ cũa tỳ kheo Amritananda, đoàn đạI biễu Phật Giáo Tích Lan đã gặp Thủ Tứơng Padma Shamsher J.B. Rana và vị thủ tướng này đã cho phép tỳ kheo Dhammalok cũng như các nhà sư khác được phép trỡ về Nepal.
Và sau đó giáo hộI phật giáo thống nhất Nepal ( ALL NEPAL BHIKKU ASSOCIATION) đuợc sáng lập bởI tỳ kheo kiêm bác sĩ Amritananda, tạI Anandakuti Vihara vào năm 1951. vào thờI gian đó trụ sỡ ANBA đuợc đặt tạI Vishwa Shanti Vihara tạI New Baneshwar-Min Bhavan, Kathmandu. Vào thơì điễm đó có sự hiện diện cuả 18 vị tỳ kheo Nam Tông trong thung lũng KTM và 55 bên ngoài thung lũng. Chĩ có 4 thiền viện cao cấp tột bực như Thiền viện Anandkuti Vihara-Swayambhu, Sumangala Vihara-Lalitpur, trung tâm phật giáo thiền định quốc tế Shankhamul và Nagar mandapa Srikêerti Vihara Kêertipur.
Nepal có khoãng 140 nhà sư Nam Tông, vị lớn tuỗI nhất là ĐạI lão Hòa thượng Aniruđdha Mahathera 83 tuỗI, và 60 thượng toạ. Những vị cao niên kế tiếp bao gồm: Thượng toạ Subodhananda, Buđdaghost, Chunda, Ashwaghost, Kumar Kashyapa vân vân…
Có 120 tỳ kheo ni, vi. Ni cao niên nhất là Sư Bà Sushila, Sư bà đương kiêm là trụ trì chuà của nữ thiền viện Dhammavati. Ngoài ra còn có Ni sư Dhammavati là phó chủ tịch cũa HộI tăng ni toàn quốc Ni tạI Nepal. Có vào khoãng 50 nhà sư và tỳ kheo ni đang học tạI Tích Lan, Miến Điện, ThaiLand, Đài Loan, Anh quốc, Và Hoa Kỳ. Phần lớn những nghiên cứ sinh lâu năm tốt nghiệp từ TíchLan và Miến Điện.
Tỳ kheo Aswaghosh, Jnanapurnika, sudarshan và tỳ kheo ni Dhammavati là những hình ảnh biểu tượng cho phật giáo Nepal hiện nay.
Tỳ kheo Ashwaghost là 1 học giã và tiếng noí ảnh hưởng sâu đậm tạI Nepal. Ngài là thành viên của thượng nghị viện Nepal và là phó chủ tịch của trung tâm phát triễn Lâm Tỳ Ni. Ông ta thành lập trường phật học Bhikshu tạI Chhetrapati – Dhalko, tạI KTM. Đó là trung tâm đào tạo tăng ni đầu tiên tạI Nepal. thiền viện mớI xây dựng mớI nhất là thiền viện Vihara rất hấp dẫn và hiên đạI xây dựng bởI Mã Lai Á, Tân Gia Ban vớI sự hợp tác cũa 1 số ngườI Nepal. Thiền Viện naỳ được trụ trì bỡI Tỳ kheo Jnapurnika. Gần đây, vị tỳ kheo này trường đào tạo phật giáo cho những vị sư nhõ tuỗI (15) bao gồm cã 2 vị nữ tu sĩ đang học tạI đây đặc biệt vệ Phật Giáo. Các nghiên cứu sinh này cũng là sinh viên của các trường công lập.
Tỳ kheo kiêm giáo sư Bhikshu Sudarshan là 1 học giã nổI tiếng về lý luận và thuyết giãng. Ngài là 1 nhà văn học, Lịch Sữ và khảo cỗ học. Ngài là giáo sư cũa trường đạI học tribhuvan. Ngài là 1 trong những vi tăng nỗI bật tạI Nepal. NổI tiếng nhất là sự bão quạn và phát huy ngôi chùa Nagara Mandapa Sri Kêerti Vihara. Ngôi chuà mang hình sắc Thái Lan đuợc xây dựng bỡI sự quyên góp cũa các phật tữ ThaiLan và Nepal.Tỳ kheo ni Dhmavati là 1 vị nữ tu sĩ rất nỗI tiếng tạI Nepal. Vị tỵ kheo ni ỡ tạI nữ thiền viện Dharmakêerti tạI KTM. Vị tỳ kheo này có khoãng hơn 28 tỳ kheo ni trong thiền viện của bà. Bà đã hoàn thành xây dựng “thiền viện Gautami” tạI Lâm Tỳ Ni., vưà được khánh thành. Tương tự như thế, tỳ kheo Sumanagala xây dựng căn bãn Phật Giáo trong thơì đạI Banepa và Ven. Tỳ kheo Maitri lãnh đạo 1 bệnh viện cho những vùng ngoạI thành nghèo khổ dướI sự giúp đỡ cũa quyền hạn chủ tịch cuả hộI phật giáo quốc tế tạI Vườn Lâm Tỳ Ni.
Trong 3 thập niên qua, Nepal Bauđdha Pariyatti Shiksha ( còn gọI là trường Phật giáo Chủ Nhật) đã được sự dìu dắt của giáo hộI phật giao’ thống nhất Nepal.
Hiện nay, trụ sỡ cũa Giáo HộI này được đặt tạI Manimandapa Vihar, tạI Patan. Giáo HộI có nhiều chi nhánh trên nhiều vùng khác nhau cũa Nepal. 2 tạp chí phật giáo hang tháng đã được xuất bản bởI các tỳ kheo. 1 Tạp chí Phật Giáo tên là “DHRMAKÊERTI”, tổng biên tập là tỳ kheo Ashwaghosh và 1 tạp chí khác “ANANDABHƠMI”, mà tổng biên tập là Tỳ kheo Kurma Kashyapa. Các tỳ kheo bắt đầu xuất bản dướI nhiều dạng khác nhau: Sách vỡ, tạ.p chí và nhiều hình thức khác tuỳ theo nhu cầu và khiá cạnh của Phật Giáo.
Suốt tháng Bhadra ( từ tháng 8 đến tháng 9), tất cả phật tử tụng kinh và cầu nguyện cho hoà bình và sự than aí vào buỗI sang và buỗI chiều tạI Thiền Viện Viharas. Quý chư Tăng Ni tưởng nhớ công đức của Đức Phật bằng những buỗI tụng kinh sang và chiều
Những Bài kinh Thần thánh đuợc tụng và các phật tử cầu nguyện cho Hoà Bình và may mắn cho những gia đình phật tữ thuần thành.
Tu thiền, Thuyết giảng, và những chương trình đạc biệt đuợc tỗ chức trọng thể trong những ngày rằm tụ tập rất nhiều dân chúng. Quý vị tăng ni được mơì đến nhà phật tử và ngay cã nhửng gia đình ngoạI đạo.
Ngày Phật Đản sanh được tỗ chức trọng thễ vào tháng Veshakh (Rằm tháng 5 mỗI năm)
Sát sanh hoặc ăn thịt động vật bị cấm triệt đễ trong ngày này. Lễ mừng Phật Đãn sanh kéo dài hang tuần trên mọI phần khác nhau cũa đất nước.1 sự di chuyễn thành từng đoàn phật tữ được diễn hành trong đêm trăng rằm đặc biệt này.
Ca’c chuơng trình phát thanh về đơì sống và công cuộc tu tập cũa Đức Phật được chiếu trên NTV và Đài Phát Thanh mỗI tuần bởI các tỳ kheo. Đặc biệt công việc trùng tu và bảo quãn các thiền viện đuợc quan tâm trong nhửng ngày lễ Phật Giáo.
Dịch giả: DươngTiêu
Theravada Buddhism in Nepal
By Kondanya, Sangharam. (Executive member of All Nepal Bhikshu Association)
According to the recorded history of Nepal, after the social reforms carried but by King Jayasthiti Malla, Buddhism was on decline. Venerable Mahaprajna, a Hindu by birth, then became the first person to be ordained as the Buddhist monk in 1924. A famous Tibetan Lama ordained him. Ven. Tsering Norbu in Kathmandu. During the Prime Ministership of late Chandra Shamsher Jung Bahadur Rana, the law of Nepal strictly banned conversion or prosetylization. Ven. Mahaprajna was expelled from the country along with other four Buddhist Lama - monk. The Ven. mahaprajna in exile became Theravadian monk in 1928 at Kushinara with the most Ven. U. Chandra Mani Mahathera (Burmese). Late Ven. Bhikshu Mahaprajna Thera, the first Nepalese Theravadian Buddhist monk of modern Nepal. This in course of time gave rise to the Theravadian Buddhist monk and nun. The first Theravadian Buddhist monk appeared in the street of Kathmandu in 1930, he was Ven. Bhikshu Prajnananda. Late Venerables Prajnananda, Shakyananda, Dhammaloka, Amritananda and Venerables Anuruddha, Subodhananda, Buddhaghosh became monk too. Like wise Ratnapali, Dharmapali and Sanghapali appeared as first Buddhist Nuns. In 1943, Ven. Dhammalok established Anandakuti Vihara, which is located at the western side of Swayambhu Hill near KTM. This is the first Theravadian Buddhist monastery in Modern Nepal. For the historical Anandakuti Vihara, the most Ven. Narada Mahathera brought sacred relics of Lord Buddha along with a sapling of the Sri Mahabodhi Tree from Anuradhapur, Sri Lank. Those sacred relics had been stolen few years back and replaced another sacred relics from Sri Lanka. In 1994, the then Prime Minister Juddha Shamsher J.B. Rana summoned eight monks living then in KTM were Ven. Bhikshus Prajnananda, Dhammaloka, Subodhananda, Prajnarashmi and Ven. Samaneras Prajnarasa, Ratnajyoti, Aggadhamma, Kumar (Chirman of All Nepal Bhikkshu Association in present time) and ordered them not to preach the Dhamma. The monks refused to yield to the order. The Prime Minister strictly ordered them to leave the country within three days. In those days Ven. Amritananda was at Saranath in India. All monks from Nepal arrived at Saranath and they formed the first Buddhist Society of Nepal called “Dharmodaya Sabha” under the chairmanship of the most Ven. U. Chandra Muni Mahathera. This society still exists and it is the biggest National Buddhist Society of international level. It had completed the 4th and 15th World Fellowship of Buddhist (WFB) conference held in KTM and it was finished five times National Buddhist Congress in various parts of Nepal. Ven. Dr. Amritananda was the towering personality of Theravada Buddhism in Nepal. He was prominent Buddhist scholar and had written many volumes on Buddhism. He is well known International Buddhist monk of Nepal. He was well-known Hero and also a leading figure in Buddhist society. During his time, in April 1946, visited Nepal a good will mission from Sri Lanka. (Ven. Narada Mahathera was the head) The mission was allowed to visit places of Buddhist pilgrimage but did not have the permit to preach the Dhamma and not to interact with other Buddhists. With the help of Ven. Amritananda, Srilankan delegation met the Prime Minister Padma Shamsher J.B. Rana and the Premier gave permission to Ven. Dhammalok and gradually other monks also were able to return from exile. Then after the ALL NEPAL BHIKKHU ASSOCIATION (Akhil Nepal Bikshu Mahasangh) was founded by Ven. Dr. Amritananda, at Anandakuti Vihara in 1951. In present time ANBA office is in Vishwa Shanti Vihara at New Baneshwar - Min Bhavan, Kathmandu. There at present 18 Theravadian Viharas in KTM Valley and 55 from outside the valley. There are only four “Seemas” (getting higher ordination or monkshood according to Buddhist rules and regulation is called - seema) such in Anandkuti Vihara - Swayambhu, Sumangala Vihara - Lalitpur, International Buddhist Meditation Centre Shankhamul and Nagar Mandapa Srikeerti Vihara Keertipur. Nepal has about 140 Theravadian monks, the eldest of them being the most Ven. Aniruddha Mahathera 83, and of 60 Vassavasa. Next to him in order of seniority are Venerables Subodhananda, Buddhaghosh, Chunda, Ashwaghosh, Kumar Kashyapa and so on. There are 120 nuns, the eldest of them being the Nun Sushila, she herself is chairperson and Nun Dhammavati is Vice-Chairperson of Nun Association, Nepal. There are about 50 monks and nuns are studying in countries such Srilanka, Myanmar, Thailand, and Taiwan (ROC). United Kingdom and U.S.A. Most of them are in Sri Lanka. Mostly senior scholar’s monks completed their study from Sri Lanka and Myanmar. Thai Land, Taiwan (ROC) UK and Most of them are in Sri Lanka. Most senior Scholars complete their study from Sri Lanke and Myamar. Venerable Aswaghosh, Jnanapurnika, Sudarshan and Nun Dhammavati are the leading figures of Theravada Buddhism in Nepal now. Ven. Ashwaghosh is an influential speaker and writer. He was a parliament member of Upper House of Nepal and Vice-Chairman of Lumbini Development Trust. He started Sangharam Bhikshu Training center at Chhetrapati - Dhalko, in KTM. It is the first monk training school. Ven. Jnanapurnika is influential speaker, translator, writer, and meditation master too. The newly constructed Vishwa Shanti Vihara is an impressive and modern monastery built by Malaysian and Singaporian devotees and in cooperation with some Nepalese. It is run under Ven. Jnapurnika. Redcently, he established Vishwa Shanti Bauddha Shikshalaya (school) where teenaged Samaneras (small monk or novice) 15 and including two nuns have been studying specially about Buddhism. They are also students of government school. Ven. Prof. Bhikshu Sudarshan is a well red and orator. He is literate, historian and archeologist. He is a teacher of the Tribhuvan University. He is rated highly among the monks in Nepal. He has well kept temple called Nagara Mandapa Sri Keerti Vihara. This impressive Thai style temple is built with donations given by mostly Thai Buddhist peoples and Nepalese too. Nun Dhammavati is the most popular nun in Nepal. She stays at Dharmakeerti nunnery in KTM. She has more than 28 nuns in her monastery. She’s completed building “Gautami Nunnery” in Lumbini, which was recently inaugurated. Like wise Ven. Sumanagala established Buddhist Home for the aged in Banepa and Ven. Maitri is running free clinic for the rural poor under his president ship of International Buddhist Society in Lumbini. Since last three decades, Nepal Bauddha Pariyatti Shiksha (Buddhist Sunday school) has been running under All Nepal Bhikkhu Association. At present time, Pariyatti Shiksha’s Central Office is at Manimandapa Vihar, in Patan. Various branches are in various parts of Nepal. Two Buddhist monthly magazines (half-early and annual also) are also being published by the monks. The titled of one of the magazine is ‘DHARMAKEERTI’, the editor in chief is Ven. Ashwaghosh and another magazine named “ANANDABHOOMI’ the chief editor is Ven. Kumar Kashyapa. The monks engage in publication of Books, booklet and the like which through light on defend aspects of Buddism. During the whole month of Bhadra (Aug-Sept) holy Buddhist hymns are chanted and prayers are held for peace and harmony in the morning and evening in Viharas (monastery) Buddha’s teachings are expounded. Every monks and nuns pay homage to the Buddha by chanting and praying every morning and evening. Meditation, lecture and special program are held in every Uposatha Day (like as fullmoon day, half moon day etc.) and gather lay people. Monks and Nuns are invited usually by inordined Buddhist by birth and non-Buddhist too. The holy hymns are chanted and prayers are held for peace and prosperity in the family of such people who though not ordained have deep faith in Buddhism. The Buddha’s Birth Anniversary that occurs in the month of Veshakh (May) every year on the full-moon night is celebrated by all people and communities with the same enthusiasm as the Buddhists in Nepal. Slaughter of animal for eating their meat is banned legally on that day. The celebrations last for a week in different parts of country. A Buddhist procession is taken out with people participating in the procession from all walks of life on the eve of the fullmoon night of the month of Ashadh (July-Aug) Talk programs highlighting the life and works of the Buddha are broadcast from NTV and Radio every week by monks. Cleaning programs are held in all the monasteries such as on the occasion of the Buddha anniversary and other special day.