No. 0683 (ÐÐ Uyên Minh dịch)
www.luylau.com
TRƯỞNG LÃO TAUNGPULU TAWYA ( KABA-AYE SAYADAW )
Ngài sinh năm 1897 tại Meiktila, Thượng Miến. Từ năm bảy tuổi ngài theo học chữ Miến Ðiện ở chùa Yewun, nơi được xem là ngôi trường làng ở Tezu, thị trấn Wundwin. Hiệu trưởng và cũng là thầy dạy học của trường là ngài U Teja Sayadaw. Theo chương trình giảng dạy của ngài, ngoài chữ Miến Ðiện, học sinh còn được học giáo lý và hội hoạ. Trong chương trình giáo lý, có cả A Tỳ Ðàm sơ học ( theo giáo trình Abhidhammatthasangaha) và văn phạm Pali.
Năm 13 tuổi ngài Taungpulau thọ giới Sa Di với ngài U Teja Sayadaw và được cho pháp danh là Shin Nandiya. Bảy năm sau (1917 ), ngài thọ Ðại Giới , cũng với ngài U Teja Sayadaw. Sau bốn năm học hành bên chân hoà thượng bổn sư, ngài Taungpulu đi về Mandalay dự khoá Pali cao cấp và được hướng dẩn học thuộc Tam Tạng cùng tất cả Chú Sớ ( Atthakatha& Tika ).
Trong thời gian này ngài cư ngụ tại chùa Shwebo Kyaung. Theo chương trình giảng dạy của trường, ngài đã học Tam Tạng với cùng lúc nhiều thầy : - Học tạng A Tỳ Ðàm với ngài Shwebo Kyaung Sayadaw. - Học sách Kankhavitaraninissaya (chú giải Abhidhamma của Miến Ðiện) với ngài U Neyya Sayadaw. - Học Saratthadipanitika (Phụ Sớ của bộ Vibhanga) với ngài U Tejavamsa Sayadaw. - Học Luật Tạng với ngài U Narada Sayadaw. - Học Kinh Tạng với ngài U Sasana Sayadaw ở Pakhokhu Taik.
Sau khi hoàn tất các học trình Tam Tạng ở Mandalay, theo lời mời của người em ruột là ngài Ashin Nandobhasa Sayadaw, ngài đứng dạy Phật học cho một lớp học một trăm tỳ kheo cho đến năm 1937. Cũng trong năm này, ngài đã cùng hai vị nữa, Ashin Nandobhasa và Htutwin Sayadaw đi về Thaton tham dự một thiền khoá Tứ Niệm Xứ với ngài Mingun Jetawan Sayadaw U Narada. Nội quy sinh hoạt ở thiền viện của ngài U Narada rất nghiêm cẩn : Tất cả tăng thiền sinh đều phải thuộc lòng Giới Bổn Patimokkha của tỳ kheo, tự mình khất thực để sống và chấp hành nghiêm túc tất cả Tác Pháp (Parivattavinayakamma), bổn phận của vị tỳ kheo trong một trú xứ đối với người đồng trú và tăng khách theo tôn ti hạ lạp.
Sau hai năm sống khép mình trong thiền viện của ngài U Narada Sayadaw, theo lời thỉnh cầu của bà Daw Kusala (một tu nữ) và cũng theo ý chỉ của thiền sư U Narada Sayadaw, ngài Taungpulu về hướng dẫn thiền định trong hai năm ở chùa làng Kanywin, cách Moulmein 6 dặm Anh. Năm 1941 ngài Taungpulu trở về nguyên quán là làng Tezu và bắt đầu thực hành các hạnh Ðầu Ðà của một tỳ kheo ẩn lâm và dành hết thời gian tu tập Tứ Niệm Xứ. Như vậy từ lúc thọ giới tỳ kheo được hai mươi hạ (năm 1937), ngài Taungpulu chỉ sống trong rừng và ăn đồ khất thực.
Sau lúc về thăm Tezu, ngài đi từ rừng này sang rừng khác và khi dừng chân nơi nào trong ít lâu, lúc biết được có ai đó chú ý đến trú xứ của mình thì ngài lại bỏ đi nơi khác. Từ thời gian sống ở Kyauksin Towya, ngài Taungpulu đã giữ trọn mười ba hạnh Ðầu Ðà. Năm 1951 có người cất cho ngài Taungpulu một chòi lá bằng tre trong rừng, nhưng ngài chỉ ngồi qua đêm không nằm. Năm 1962, ngài Taungpulu được mời chứng minh lễ khánh thành thiền viện Taungpuluse và chùa Kaba-Aye (nơi ngài đã đặt viên đá đầu tiên). Từ đây ngài được gọi là Taungpulu Sayadaw thay vì Shin Nandiya Sayadaw như trước đó.
Năm 1964 ngài Taungpulu được thỉnh về dạy thiền ở Sinkyan Kyaung và ngài đã đem áp dụng tại đây những thanh quy học được từ ngài Mingun Jetawan Sayadaw U Narada và nhờ vậy đã đào tạo được một thế hệ thiền sư xuất sắc cho Phật giáo Miến Ðiện sau này. Năm 1979, theo lời thỉnh cầu của Dr. Rina Sirca ( người bảo trợ tài chánh ) và các Phật tử Mỹ ở San Francisco California, ngài Taungpulu sang viếng thăm Hoa Kỳ trong ba tháng hai mươi ngày. Trong thời gian ngắn ngủi này ngài đã là đàn chủ một đại lễ Kiết Giới Sima, làm hoà thượng tế độ cho bốn mươi lăm vị thọ giới Tỳ kheo, mười lăm vị Sa di, ba mươi cô tu nữ và truyền Tam Quy cho tám trăm cư sĩ.
Trong chuyến đi Ấn Ðộ sau đó ( thời gian một tháng rưỡi), ngài Taungpulu đã cho tu Tỳ kheo muời bốn vị, Sa di mười hai vị và truyền Tam Quy cho hơn ba trăm cư sĩ. Dù ở đâu, ngài luôn luôn thuyết giảng và khích lệ việc tu tập Tứ Niệm Xứ. Sang năm 1981 ngài còn trở qua Mỹ thêm lần nữa , trong thời gian lâu hơn, để làm việc ở một số trung tâm Phật giáo Miến Ðiện.
www.luylau.com
TRƯỞNG LÃO TAUNGPULU TAWYA ( KABA-AYE SAYADAW )
Ngài sinh năm 1897 tại Meiktila, Thượng Miến. Từ năm bảy tuổi ngài theo học chữ Miến Ðiện ở chùa Yewun, nơi được xem là ngôi trường làng ở Tezu, thị trấn Wundwin. Hiệu trưởng và cũng là thầy dạy học của trường là ngài U Teja Sayadaw. Theo chương trình giảng dạy của ngài, ngoài chữ Miến Ðiện, học sinh còn được học giáo lý và hội hoạ. Trong chương trình giáo lý, có cả A Tỳ Ðàm sơ học ( theo giáo trình Abhidhammatthasangaha) và văn phạm Pali.
Năm 13 tuổi ngài Taungpulau thọ giới Sa Di với ngài U Teja Sayadaw và được cho pháp danh là Shin Nandiya. Bảy năm sau (1917 ), ngài thọ Ðại Giới , cũng với ngài U Teja Sayadaw. Sau bốn năm học hành bên chân hoà thượng bổn sư, ngài Taungpulu đi về Mandalay dự khoá Pali cao cấp và được hướng dẩn học thuộc Tam Tạng cùng tất cả Chú Sớ ( Atthakatha& Tika ).
Trong thời gian này ngài cư ngụ tại chùa Shwebo Kyaung. Theo chương trình giảng dạy của trường, ngài đã học Tam Tạng với cùng lúc nhiều thầy : - Học tạng A Tỳ Ðàm với ngài Shwebo Kyaung Sayadaw. - Học sách Kankhavitaraninissaya (chú giải Abhidhamma của Miến Ðiện) với ngài U Neyya Sayadaw. - Học Saratthadipanitika (Phụ Sớ của bộ Vibhanga) với ngài U Tejavamsa Sayadaw. - Học Luật Tạng với ngài U Narada Sayadaw. - Học Kinh Tạng với ngài U Sasana Sayadaw ở Pakhokhu Taik.
Sau khi hoàn tất các học trình Tam Tạng ở Mandalay, theo lời mời của người em ruột là ngài Ashin Nandobhasa Sayadaw, ngài đứng dạy Phật học cho một lớp học một trăm tỳ kheo cho đến năm 1937. Cũng trong năm này, ngài đã cùng hai vị nữa, Ashin Nandobhasa và Htutwin Sayadaw đi về Thaton tham dự một thiền khoá Tứ Niệm Xứ với ngài Mingun Jetawan Sayadaw U Narada. Nội quy sinh hoạt ở thiền viện của ngài U Narada rất nghiêm cẩn : Tất cả tăng thiền sinh đều phải thuộc lòng Giới Bổn Patimokkha của tỳ kheo, tự mình khất thực để sống và chấp hành nghiêm túc tất cả Tác Pháp (Parivattavinayakamma), bổn phận của vị tỳ kheo trong một trú xứ đối với người đồng trú và tăng khách theo tôn ti hạ lạp.
Sau hai năm sống khép mình trong thiền viện của ngài U Narada Sayadaw, theo lời thỉnh cầu của bà Daw Kusala (một tu nữ) và cũng theo ý chỉ của thiền sư U Narada Sayadaw, ngài Taungpulu về hướng dẫn thiền định trong hai năm ở chùa làng Kanywin, cách Moulmein 6 dặm Anh. Năm 1941 ngài Taungpulu trở về nguyên quán là làng Tezu và bắt đầu thực hành các hạnh Ðầu Ðà của một tỳ kheo ẩn lâm và dành hết thời gian tu tập Tứ Niệm Xứ. Như vậy từ lúc thọ giới tỳ kheo được hai mươi hạ (năm 1937), ngài Taungpulu chỉ sống trong rừng và ăn đồ khất thực.
Sau lúc về thăm Tezu, ngài đi từ rừng này sang rừng khác và khi dừng chân nơi nào trong ít lâu, lúc biết được có ai đó chú ý đến trú xứ của mình thì ngài lại bỏ đi nơi khác. Từ thời gian sống ở Kyauksin Towya, ngài Taungpulu đã giữ trọn mười ba hạnh Ðầu Ðà. Năm 1951 có người cất cho ngài Taungpulu một chòi lá bằng tre trong rừng, nhưng ngài chỉ ngồi qua đêm không nằm. Năm 1962, ngài Taungpulu được mời chứng minh lễ khánh thành thiền viện Taungpuluse và chùa Kaba-Aye (nơi ngài đã đặt viên đá đầu tiên). Từ đây ngài được gọi là Taungpulu Sayadaw thay vì Shin Nandiya Sayadaw như trước đó.
Năm 1964 ngài Taungpulu được thỉnh về dạy thiền ở Sinkyan Kyaung và ngài đã đem áp dụng tại đây những thanh quy học được từ ngài Mingun Jetawan Sayadaw U Narada và nhờ vậy đã đào tạo được một thế hệ thiền sư xuất sắc cho Phật giáo Miến Ðiện sau này. Năm 1979, theo lời thỉnh cầu của Dr. Rina Sirca ( người bảo trợ tài chánh ) và các Phật tử Mỹ ở San Francisco California, ngài Taungpulu sang viếng thăm Hoa Kỳ trong ba tháng hai mươi ngày. Trong thời gian ngắn ngủi này ngài đã là đàn chủ một đại lễ Kiết Giới Sima, làm hoà thượng tế độ cho bốn mươi lăm vị thọ giới Tỳ kheo, mười lăm vị Sa di, ba mươi cô tu nữ và truyền Tam Quy cho tám trăm cư sĩ.
Trong chuyến đi Ấn Ðộ sau đó ( thời gian một tháng rưỡi), ngài Taungpulu đã cho tu Tỳ kheo muời bốn vị, Sa di mười hai vị và truyền Tam Quy cho hơn ba trăm cư sĩ. Dù ở đâu, ngài luôn luôn thuyết giảng và khích lệ việc tu tập Tứ Niệm Xứ. Sang năm 1981 ngài còn trở qua Mỹ thêm lần nữa , trong thời gian lâu hơn, để làm việc ở một số trung tâm Phật giáo Miến Ðiện.