<body><script type="text/javascript"> function setAttributeOnload(object, attribute, val) { if(window.addEventListener) { window.addEventListener('load', function(){ object[attribute] = val; }, false); } else { window.attachEvent('onload', function(){ object[attribute] = val; }); } } </script> <div id="navbar-iframe-container"></div> <script type="text/javascript" src="https://apis.google.com/js/platform.js"></script> <script type="text/javascript"> gapi.load("gapi.iframes:gapi.iframes.style.bubble", function() { if (gapi.iframes && gapi.iframes.getContext) { gapi.iframes.getContext().openChild({ url: 'https://www.blogger.com/navbar.g?targetBlogID\x3d10127388\x26blogName\x3dTin+T%E1%BB%A9c+Ph%E1%BA%ADt+Gi%C3%A1o\x26publishMode\x3dPUBLISH_MODE_BLOGSPOT\x26navbarType\x3dBLUE\x26layoutType\x3dCLASSIC\x26searchRoot\x3dhttps://roomdieuphap.blogspot.com/search\x26blogLocale\x3dvi_VN\x26v\x3d2\x26homepageUrl\x3dhttp://roomdieuphap.blogspot.com/\x26vt\x3d-3702944493927259419', where: document.getElementById("navbar-iframe-container"), id: "navbar-iframe", messageHandlersFilter: gapi.iframes.CROSS_ORIGIN_IFRAMES_FILTER, messageHandlers: { 'blogger-ping': function() {} } }); } }); </script><!-- --><div id="flagi" style="visibility:hidden; position:absolute;" onmouseover="showDrop()" onmouseout="hideDrop()"><div id="flagtop"></div><div id="top-filler"></div><div id="flagi-body">Notify Blogger about objectionable content.<br /><a href="http://help.blogger.com/bin/answer.py?answer=1200"> What does this mean? </a> </div></div><div id="b-navbar"><a href="http://www.blogger.com/" id="b-logo" title="Go to Blogger.com"><img src="http://www.blogger.com/img/navbar/1/logobar.gif" alt="Blogger" width="80" height="24" /></a><div id="b-sms" class="b-mobile"><a href="sms:?body=Hi%2C%20check%20out%20Thong%20Bao%20at%20trangthongbao.blogspot.com">Send As SMS</a></div><form id="b-search" name="b-search" action="http://search.blogger.com/"><div id="b-more"><a href="http://www.blogger.com/" id="b-getorpost"><img src="http://www.blogger.com/img/navbar/1/btn_getblog.gif" alt="Get your own blog" width="112" height="15" /></a><a id="flagButton" style="display:none;" href="javascript:toggleFlag();" onmouseover="showDrop()" onmouseout="hideDrop()"><img src="http://www.blogger.com/img/navbar/1/flag.gif" name="flag" alt="Flag Blog" width="55" height="15" /></a><a href="http://www.blogger.com/redirect/next_blog.pyra?navBar=true" id="b-next"><img src="http://www.blogger.com/img/navbar/1/btn_nextblog.gif" alt="Next blog" width="72" height="15" /></a></div><div id="b-this"><input type="text" id="b-query" name="as_q" /><input type="hidden" name="ie" value="UTF-8" /><input type="hidden" name="ui" value="blg" /><input type="hidden" name="bl_url" value="trangthongbao.blogspot.com" /><input type="image" src="http://www.blogger.com/img/navbar/1/btn_search_this.gif" alt="Search This Blog" id="b-searchbtn" title="Search this blog with Google Blog Search" onclick="document.forms['b-search'].bl_url.value='trangthongbao.blogspot.com'" /><input type="image" src="http://www.blogger.com/img/navbar/1/btn_search_all.gif" alt="Search All Blogs" value="Search" id="b-searchallbtn" title="Search all blogs with Google Blog Search" onclick="document.forms['b-search'].bl_url.value=''" /><a href="javascript:BlogThis();" id="b-blogthis">BlogThis!</a></div></form></div><script type="text/javascript"><!-- var ID = 10977212;var HATE_INTERSTITIAL_COOKIE_NAME = 'dismissedInterstitial';var FLAG_COOKIE_NAME = 'flaggedBlog';var FLAG_BLOG_URL = 'http://www.blogger.com/flag-blog.g?nav=1&toFlag=' + ID;var UNFLAG_BLOG_URL = 'http://www.blogger.com/unflag-blog.g?nav=1&toFlag=' + ID;var FLAG_IMAGE_URL = 'http://www.blogger.com/img/navbar/1/flag.gif';var UNFLAG_IMAGE_URL = 'http://www.blogger.com/img/navbar/1/unflag.gif';var ncHasFlagged = false;var servletTarget = new Image(); function BlogThis() {Q='';x=document;y=window;if(x.selection) {Q=x.selection.createRange().text;} else if (y.getSelection) { Q=y.getSelection();} else if (x.getSelection) { Q=x.getSelection();}popw = y.open('http://www.blogger.com/blog_this.pyra?t=' + escape(Q) + '&u=' + escape(location.href) + '&n=' + escape(document.title),'bloggerForm','scrollbars=no,width=475,height=300,top=175,left=75,status=yes,resizable=yes');void(0);} function blogspotInit() {initFlag();} function hasFlagged() {return getCookie(FLAG_COOKIE_NAME) || ncHasFlagged;} function toggleFlag() {var date = new Date();var id = 10977212;if (hasFlagged()) {removeCookie(FLAG_COOKIE_NAME);servletTarget.src = UNFLAG_BLOG_URL + '&d=' + date.getTime();document.images['flag'].src = FLAG_IMAGE_URL;ncHasFlagged = false;} else { setBlogspotCookie(FLAG_COOKIE_NAME, 'true');servletTarget.src = FLAG_BLOG_URL + '&d=' + date.getTime();document.images['flag'].src = UNFLAG_IMAGE_URL;ncHasFlagged = true;}} function initFlag() {document.getElementById('flagButton').style.display = 'inline';if (hasFlagged()) {document.images['flag'].src = UNFLAG_IMAGE_URL;} else {document.images['flag'].src = FLAG_IMAGE_URL;}} function showDrop() {if (!hasFlagged()) {document.getElementById('flagi').style.visibility = 'visible';}} function hideDrop() {document.getElementById('flagi').style.visibility = 'hidden';} function setBlogspotCookie(name, val) {var expire = new Date((new Date()).getTime() + 5 * 24 * 60 * 60 * 1000);var path = '/';setCookie(name, val, null, expire, path, null);} function removeCookie(name){var expire = new Date((new Date()).getTime() - 1000); setCookie(name,'',null,expire,'/',null);} --></script><script type="text/javascript"> blogspotInit();</script><div id="space-for-ie"></div>

 

Thứ Bảy, tháng 3 05, 2005

No. 0139
Nghiên cứu phát hiện não bộ phát sinh năng lực mạnh mẽ khi thiền định
By Marc Kaufman, Washington Post Staff Writer, January 3, 2005

Tổ chức nghiên cứu não bộ bắt đầu đệ trình bằng chứng cụ thể về những gì mà hành giả thiền tập Phật giáo đã duy trì hằng bao thế kỷ : Rèn luyện tâm thức và thiền tập có thể thay đổi sự hoạt động của não bộ và cho phép con người chứng nghiệm giác ngộ ở nhiều trình độ khác nhau.

Những trạng thái biến chuyển đó đã được hiểu theo tính cách truyền thống như là những gì thuộc về siêu thế, những gì ngoài sự lượng định của thế giới vật lý và sự đánh giá khách quan. Nhưng trong vài năm vừa qua, các nhà nghiên cứu tại University of Wisconsin làm việc với nhóm tu sĩ Tây Tạng đã có thể phiên dịch những kinh nghiệm tâm linh thành thuật ngữ khoa học của tần số sóng cao tần gamma nơi não bộ. Họ đã xác định vỏ não thuỳ trái trước trán, khu vực phía sau trán bên trái như là vị trí mà hoạt động của não bộ liên quan tới thiền định đặc biệt mạnh mẽ.

“Những gì chúng tôi phát hiện là não bộ của những hành giả hành thiền lâu năm cho thấy hoạt động của chúng ở trên một tỷ lệ mà chúng tôi chưa bao giờ được thấy trước kia”. Richard Davidson, một khoa học gia thần kinh tại Viện Nghiên Cứu W.M. Keck Laboratory for Functional Brain Imaging and Behavior của một đại học nói như vậy. “Nó chứng minh rằng tính chất vật lý của não bộ được tập luyện có khả năng thay đổi theo một chiều hướng mà ít người có thể tưởng tượng”, ông ta nói thêm.

Các khoa học gia thường tin tưởng trái ngược rằng sự liên đới giữa kinh mạch và tế bào não bộ đã được thành lập lúc tuổi còn thơ ấu và nó sẽ không thay đổi khi trưởng thành. Nhưng giả thuyết đó đã bị phản bác trong thập kỷ vừa qua với sự trợ giúp của các cuộc nghiên cứu khám phá não bộ cùng với những thiết bị kỹ thuật khác, và dựa theo cơ sở này, các khoa học gia đã nhìn nhận khái niệm về diễn trình phát triển não bộ và “Hệ thần kinh nhu tính ”
Davidson nói rằng kết quả mới nhất của ông từ việc nghiên cứu thiền tập, ấn bản tháng 11 của Viện khoa học quốc gia , đã đi một bước xa hơn trên khái niệm của thần kinh nhu tính bằng cách cho thấy rằng rèn luyện tâm thức qua thiền định có khả năng cải biến hoạt động nội tại và điện đồ của não bộ.

Khám phá mới là kết quả của một sự cộng tác dài hạn giữa Davidson và Đức Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng. Buổi đầu, Đức Dalai Lama đã mời Davidson tới nhà Ngài ở Dharamsala, Ấn Độ năm 1992, sau khi được biết sáng kiến nghiên cứu vào lãnh vực khoa học thần kinh tri giác của Davidson . Từ khi bắt đầu, Đức Dalai Lama đã thích thú trong việc Davidson khảo sát một cách khoa học sự hoạt động của bộ não trong trạng thái thiền định của một vài tu sĩ dưới quyền Ngài. Ba năm trước, Đức Dalai Lama đã bỏ hai ngày viếng thăm phòng thí nghiệm của Davidson, Ngài quyết định gửi tám trong số những hành giả thành công nhất tới phòng thí nghiệm của Davidson để thử nghiệm qua việc chụp và quét não bộ bằng thiết bị điện tử EEG (electroencephalograph) tạm dịch là Đại não X quang chiếu ký hay máy chụp quang tuyến não bộ.

Các hành giả Phật giáo trong cuộc thí nghiệm đã trải qua khoảng 10,000 tới 50,000 giờ thiền định trong thời gian 15 tới 40 năm theo truyền thống hai dòng Ninh Mã hay Hồng Giáo (Nyingmapa) và Ca Nhĩ Cư hay Bạch Giáo (Kagyupa) ở Tây Tạng. Để so sánh, 10 sinh viên tình nguyện không có kinh nghiệm thiền định trước đó, cũng đã được đưa vào cuộc thử nghiệm sau một tuần lễ huấn luyện .

Các tu sĩ và tình nguyện viên đã được phối trí vào một mạng lưới có 256 thiết bị truyền cảm điện tử (electrical sensors) và được yêu cầu hành thiền trong một thời gian ngắn. Suy nghĩ và các hoạt động tinh thần khác được nhận biết để phát sinh trạng thái khinh an nhưng có thể phát hiện, sự bùng phát của hoạt động điện tử như một nhóm lớn của thần kinh hệ gửi đi những tín hiệu trong điều kiện hỗ tương qua lại là những gì mà sensors ghi nhận được. Davidson đã đặc biệt hứng thú trong việc đo lường sóng gamma, một trong những tần số cao và xung lực điện tử não bộ quan trọng nhất .

Cả hai nhóm đều được yêu cầu hành thiền, đặt biệt trong trạng thái vô điều kiện từ tâm. Giáo lý Phật pháp này chính là điều tâm đắc mà Đức Dalai Lama đã giảng dạy cho hàng đệ tử của Ngài, nghĩa là “ Sẵn sàng giúp đỡ chúng sanh vô hạn cuộc trong khả năng”. Các nhà nghiên cứu chọn lựa tiêu điểm này vì nó không đòi hỏi tập trung trên một đề mục nào, quán tưởng hay hồi ức và tu dưỡng thay cho một trạng thái biến chuyển hiện hữu.

Davidson nói, “một cách rõ ràng kết quả cho thấy thiền định kích hoạt tâm thức được rèn luyện của các tu sĩ theo một chiều hướng khác biệt một cách đáng kể so sánh với những tình nguyện viên”. Quan trọng nhất, các điện cực ghi nhận bội phần các vận tốc di động nhanh của làn sóng gamma có công năng dị thường nơi các tu sĩ, và họ phát hiện rằng sự chuyển động của làn sóng qua não bộ đã được hệ thống và đồng đẳng hoá vượt xa nhóm sinh viên . Bộ não những hành giả mới thực tập cho thấy hoạt động của sóng gamma tăng trưởng rất mong manh trong khi họ thiền tập, nhưng ở một số tu sĩ, hoạt động của sóng gamma có một năng lực phi thường hơn cả làn sóng đã được ghi nhận trước đây ở bất cứ một người khoẻ mạnh nào.
Các tu sĩ trải qua nhiều năm thiền định nhất phóng phát tần số sóng gamma cao nhất. Hiệu ứng này – Mức độ hoạt động càng cao thì phản ảnh càng nhiều hơn cấp độ thấp – Đó là những gì mà các nhà nghiên cứu đòi hỏi để xác định tính chất của “nguyên nhân và kết quả”.

Nghiên cứu này của Davidson đã nhất thống với công việc trước kia ở điểm vị trí vỏ não thuỳ trái trước trán đúng là khu vực não bộ liên quan tới hạnh phúc, tư tưởng và xúc cảm. Sử dụng thiết bị công năng từ tính đo lường phản ứng trên các tu sĩ đang hành thiền, Davidson phát hiện hoạt động não bộ của họ đặt biệt rất cao tại khu vực này cũng giống như kết quả đã được đo lường bằng máy chụp quang tuyến não.

Kết luận của Davidson từ cuộc nghiên cứu là thiền hành không phải chỉ thay đổi sự làm việc của não bộ trong một giai đoạn ngắn hạn mà phần nhiều còn có thể thay đổi liên tục. Ông nói, phát hiện này căn cứ trên sự thật là các tu sĩ được nhìn nhận rằng hoạt động của tần số sóng gamma nơi họ nhiều hơn của nhóm sinh viên ngay cả trước khi họ bắt đầu hành thiền. Trong cuộc nghiên cứu tại University of Massachusetts, Jon Kabat-Zinn cũng đã đi đến một kết luận giống như vậy vài năm trước.

Các nhà nghiên cứu tại Đại học Harvard và Princeton đang thử nghiệm một số trong nhóm các vị tu sĩ đã trải qua cuộc thử nghiệm trước kia trên một bình diện khác của việc hành thiền : Khả năng tạo ảnh và khả năng kiểm soát tư tưởng. Davidson cũng dự trù tiến hành một nghiên cứu xa hơn.

“Những gì chúng tôi phát hiện là tâm thức hay não bộ được rèn luyện khác biệt một cách hiển nhiên với những gì không được rèn luyện. Với thời gian, chúng ta sẽ có thể hiểu được rõ ràng hơn tiềm lực quan trọng của tâm thức được rèn luyện tiếp tục tăng trưởng như thực chất mà nó đã được hành trì một cách nghiêm chỉnh.”
(Bản dịch Hạt Cát)


Meditation Gives Brain a Charge, Study Finds
By Marc Kaufman, Washington Post Staff Writer, January 3, 2005


Washington, USA -- Brain research is beginning to produce concrete evidence for something that Buddhist practitioners of meditation have maintained for centuries: Mental discipline and meditative practice can change the workings of the brain and allow people to achieve different levels of awareness.
Those transformed states have traditionally been understood in transcendent terms, as something outside the world of physical measurement and objective evaluation. But over the past few years, researchers at the University of Wisconsin working with Tibetan monks have been able to translate those mental experiences into the scientific language of high-frequency gamma waves and brain synchrony, or coordination. And they have pinpointed the left prefrontal cortex, an area just behind the left forehead, as the place where brain activity associated with meditation is especially intense.
"What we found is that the longtime practitioners showed brain activation on a scale we have never seen before," said Richard Davidson, a neuroscientist at the university's new $10 million W.M. Keck Laboratory for Functional Brain Imaging and Behavior. "Their mental practice is having an effect on the brain in the same way golf or tennis practice will enhance performance." It demonstrates, he said, that the brain is capable of being trained and physically modified in ways few people can imagine.
Scientists used to believe the opposite -- that connections among brain nerve cells were fixed early in life and did not change in adulthood. But that assumption was disproved over the past decade with the help of advances in brain imaging and other techniques, and in its place, scientists have embraced the concept of ongoing brain development and "neuroplasticity."
Davidson says his newest results from the meditation study, published in the Proceedings of the National Academy of Sciences in November, take the concept of neuroplasticity a step further by showing that mental training through meditation (and presumably other disciplines) can itself change the inner workings and circuitry of the brain.
The new findings are the result of a long, if unlikely, collaboration between Davidson and Tibet's Dalai Lama, the world's best-known practitioner of Buddhism. The Dalai Lama first invited Davidson to his home in Dharamsala, India, in 1992 after learning about Davidson's innovative research into the neuroscience of emotions. The Tibetans have a centuries-old tradition of intensive meditation and, from the start, the Dalai Lama was interested in having Davidson scientifically explore the workings of his monks' meditating minds. Three years ago, the Dalai Lama spent two days visiting Davidson's lab.
The Dalai Lama ultimately dispatched eight of his most accomplished practitioners to Davidson's lab to have them hooked up for electroencephalograph (EEG) testing and brain scanning. The Buddhist practitioners in the experiment had undergone training in the Tibetan Nyingmapa and Kagyupa traditions of meditation for an estimated 10,000 to 50,000 hours, over time periods of 15 to 40 years. As a control, 10 student volunteers with no previous meditation experience were also tested after one week of training.
The monks and volunteers were fitted with a net of 256 electrical sensors and asked to meditate for short periods. Thinking and other mental activity are known to produce slight, but detectable, bursts of electrical activity as large groupings of neurons send messages to each other, and that's what the sensors picked up. Davidson was especially interested in measuring gamma waves, some of the highest-frequency and most important electrical brain impulses.
Both groups were asked to meditate, specifically on unconditional compassion. Buddhist teaching describes that state, which is at the heart of the Dalai Lama's teaching, as the "unrestricted readiness and availability to help living beings." The researchers chose that focus because it does not require concentrating on particular objects, memories or images, and cultivates instead a transformed state of being.
Davidson said that the results unambiguously showed that meditation activated the trained minds of the monks in significantly different ways from those of the volunteers. Most important, the electrodes picked up much greater activation of fast-moving and unusually powerful gamma waves in the monks, and found that the movement of the waves through the brain was far better organized and coordinated than in the students. The meditation novices showed only a slight increase in gamma wave activity while meditating, but some of the monks produced gamma wave activity more powerful than any previously reported in a healthy person, Davidson said.
The monks who had spent the most years meditating had the highest levels of gamma waves, he added. This "dose response" -- where higher levels of a drug or activity have greater effect than lower levels -- is what researchers look for to assess cause and effect.
In previous studies, mental activities such as focus, memory, learning and consciousness were associated with the kind of enhanced neural coordination found in the monks. The intense gamma waves found in the monks have also been associated with knitting together disparate brain circuits, and so are connected to higher mental activity and heightened awareness, as well.
Davidson's research is consistent with his earlier work that pinpointed the left prefrontal cortex as a brain region associated with happiness and positive thoughts and emotions. Using functional magnetic resonance imagining (fMRI) on the meditating monks, Davidson found that their brain activity -- as measured by the EEG -- was especially high in this area.
Davidson concludes from the research that meditation not only changes the workings of the brain in the short term, but also quite possibly produces permanent changes. That finding, he said, is based on the fact that the monks had considerably more gamma wave activity than the control group even before they started meditating. A researcher at the University of Massachusetts, Jon Kabat-Zinn, came to a similar conclusion several years ago.
Researchers at Harvard and Princeton universities are now testing some of the same monks on different aspects of their meditation practice: their ability to visualize images and control their thinking. Davidson is also planning further research.
"What we found is that the trained mind, or brain, is physically different from the untrained one," he said. In time, "we'll be able to better understand the potential importance of this kind of mental training and increase the likelihood that it will be taken seriously."

http://www.phayul.com/news/article.aspx?article=Meditation+Gives+Brain+a+Charge%2C+Study+Finds&amp;amp;amp;amp;amp;amp;amp;amp;id=8720&c=1&t=1
No. 0138

Tìm thấy một nội tâm an lạc

Viết bởi ký giả Thanin Weeradet, tờ Bangkok post, ngày 17 tháng 02, 2005

Bangkok, Thai Lan - Hiện nay môn thực tập thiền Vipassana đang được phổ biến rộng rãi hơn cho nhiều người trong giới chuyên nghiệp đã có ước muốn cải thiện công việc làm và đời sống cá nhân của họ.

Ngôi chùa tại Sri Lanka đã là một nơi lý tưởng mà nhiều Phật tử trên thế giới đang mơ ước được thăm viếng.

Vipassana, hay được gọi là thiền quán, đã được nhiều người tin tưởng là một môn tập luyện có thể giúp cho con người không những làm chủ được lý trí của mình mà còn tạo được những ý tưởng sáng suốt hơn trong việc phán quyết của ho.

Hiện nay, công ty du lịch Vacharatham đa thu hút được nhiều khác du lịch trong chương trình mới, đó là những chuyến tham quan các địa danh có liên quan đến lịch sử của Phật Giáo và những nơi di tích lịch sử của Đức Phật.

Ngày nay, việc thăm viếng di tích lịch sử và tôn giáo đã không còn là điều mới mẻ cho mọi người nữa, nhưng những dịp để chúng ta tham quan các điạ danh mang nhiều ý nghĩa lịch sử của đạo Phật, và cũng là cơ hội để chúng ta thực tập của môn thiền quán Vipassana, đã làm cho phong trào du lịch mới này một bước nhảy vọt trong sự thành công. Cô Kohchaporn Lertthamtavee, giám đốc quản trị nhân viên, đã nói cô có một số khách hàng rất đáng kể đang theo các khóa học thiền Vipassana của cô.

Liên quan đến công việc xuất khẩu quần áo qua Hồng Kông và Trung quốc trong nhiều năm nay, cô Kohchaprn đã có rất nhiều khách hàng quen thuộc, và cô tin tưởng rằng những khách hàng này sẽ tham dự vào các chương trình du lịch và thực hành pháp môn thiền quán của cô.

Là một người thực tập thiền quán và cũng là người huấn luyện viên môn thiền quán này, cô am tường về sự liên hệ mật thiết của người dân Thái đối với đạo Phật, cô đã đặt trọng tâm của cô vào sự yêu thích thể hiện lòng tin tưởng của người Thái bằng cách tạo những chuyến du lịch hầu giúp đỡ qúi khách hàng của cô có được cái nhìn tận mắt những nơi chốn liên hệ đến lịch sử đạo Phật. Ví dụ như, một chuyến tham quan nằm ngay tại thành phố Shanghai, khách du lịch đã được thăm quần đảo Potuoshan còn được gọi là Phổ Đà Sơn, một địa danh mà theo truyền thuyết thì nơi đây Đức Phật Quán Thế Âm (Kuan Yin) đã nhiều lần ứng hiện và được coi như một biểu tượng trú xứ của Đức Quán Thế Âm.

Ngoài các chương trình du lịch khác được chú trọng đến những địa điểm có liên hệ với Phật Giáo nổi tiếng tại các nước Ấn Độ, Hồng Kông, Miến Điện, Đại Hàn, cô còn cống hiến du khách tham quan một chương trình mới, chương trình tham quan những di tích đầy ý nghĩa lịch sử của Đức Phật. Chương trình du lịch bao gồm những chuyến tham quan như ngôi chùa trên đỉnh núi cao tại tỉnh Ko Lantao ở Hồng Kông hay ngôi chùa với nhiều cách kiến trúc vĩ đại Borobodur tại Indonesia-điểm đặc biệt ngôi chùa này là một trong những ngôi đền lớn nhất trên thế giới.

Cô nói "Từ trước đến nay, chưa từng bao giờ có được một lượng khách du lịch đông đảo như chương trình du lịch tại Shanghai bây giờ, và lượng khách này đã làm xôn xao thị trường du lịch thế giới kể từ tháng 10 năm ngoái."

Cô Kohchaporn Letthamtavee bầy tỏ phương cách để tìm ra luồng tâm thư giãn qua sự hành trì thiền định.

Cô đã cho rằng nhiều người sau khi du nhập vào môn Vipassana tại trung tâm Vacharatham đã đều bày tỏ sự nôn nóng muốn thăm viếng các địa danh liên quan đến di tích lịch sử của Phật Giáo tại nhiều nơi trên khắp thế giới.

Bàn về sự dùng lực của thiền quán Vipassana để giúp tìm ra căn bệnh cho những bệnh nhân, cô Kohchaporn cho biết số khách thập phương xa gần đã đến xin khám bệnh mỗi ngày một gia tăng đã khiến cô buộc phải giới hạn thời gian khám bệnh cho mỗi người là 15 phút.

Cũng trong vấn đề thiền quán Vipassana, cô nói, "Tôi đã luyện tập trong nhiều năm qua và tôi đã đạt được một khả năng cao trong lãnh vực này.” Hiện nay số khách cần cô giúp đỡ đã lan rộng trên toàn quốc."

Cô cho biết thêm về niềm tin tưởng mãnh liệt đối với tôn giáo của cô sau lần đỗ vỡ của cuộc hôn nhân thứ nhất: gia đình tan nát, công danh thất bại đã đưa cô vào những khủng hoảng tinh thần và thất vọng trong cuộc sống. Cô những tưởng sẽ không bao giờ cô được có lại cuộc sống bình thường như hôm nay. Nhờ vào niềm tin mãnh liệt của cô đối với tôn giáo cùng với sự nhẫn nại cần cù bản thân, cô đã gầy lại được một cơ sở vững chắc và một đời sống an lành như hôm nay. Cô tự hứa cô sẽ cống hiến nguồn lợi tức thâu được của công ty du lịch của cô cho tổ chức Vacharatham.

Kohcharporn nói, "Những ngày khi tôi đang chìm trong cơ đau khổ và khủng hoảng qua những lời cầu nguyện, tôi đã xin hứa nếu tôi có được một cuộc sống yên bình và hạnh phúc trở lại, tôi sẽ đóng góp những gì tôi có thể giúp đỡ những người khác." Cô Kohchaporn với sự thành công trong ngành xuất khẩu quần áo của cô đã nói lên kết quả thành công của việc tu tập thiền định của cô.

Bản dịch của Minh Tý

Finding inner peace

by THANIN WEERADET, Bangkok Post, Feb 17, 2005

Bangkok, Thailand -- Practising Vipassana is becoming more popular among professionals eager to improve both their business and personal lives.
<<>>inner peace of mind through meditation.
She said that people who come to practise Vipassana at the Vacharatham Home have expressed an interest in visiting places related to Lord Buddha in other countries.
Claiming to use her Vipassana strength to detect illness in other people, Kohchaporn has such a huge crowd of visitors to her Vipassana home that almost every day she is obliged to arrange a schedule, allowing each visitor a 15-minute psychological consultation.
She said she has practised Vipassana for many years and attained a high level of ability in the practice. These days she sees a lot of visitors travelling across the country to seek her psychological help.
Recovering from a personal family crisis after she first got married, she said she survived personal turmoil and business failure thanks to her strong religious faith. With the strong personality of a hard-working business woman, Kohchaporn said profits from running the tour company will go to the formation of a Vacharatham Foundation.
"When I suffered a crisis, I made a prayer that I would make a great contribution to help people if I could stand up on my own feet again," said Kohchaporn whose thriving clothes export business is a testimony to her successful meditation.
No. 0137

Môt ngày của cuôc đời của một nhà sư Tây Tang
Viết bởi Tenzin Pema, Báo The Time of Tibet, số ra ngày 07 tháng 2 năm 2005

Bylakuppe, India - Ở bất cứ tu viện nào của Tây Tạng, cái khung cảnh yên tĩnh hòa lẵn với những ánh mắt khoan dung và đầy thân thiện ở xung quanh một người du khách thăm viếng chùa cũng làm cho người khách này quên hết mọi tranh giành va thù oán đang diễn ra ở thế giới bên ngoài.. Tôi đã từng thăm viếng rất nhiều ngôi chùa không biết bao nhiêu lần, và mỗi lần như vâỵ tôi đều nhận được cái cảm giác mà không nơi nào khác có thể mang đến cho tôi cả, cái cảm giác bình yên trong tâm hồn.

Đăc biệt nhất đó là ngôi chùa có tên Sera tại vùng Bylakuppe, miền nam của Ấn Độ. Tu sĩ trong chùa này lên đến 5,000 người, và đây cũng là ngôi chùa đẹp nhất của miền nam Ấn Độ. Từ trạm xe buýt hướng về phía chùa, lác đác một vài ngôi nhà nhỏ xuất hiện giữa những cánh đồng xanh thẫm Người Tây Tạng ỡ vùng này trồng bắp như một lương thực chính.

Tiến gần đến tu viện Sera, cái đỉnh mái chùa màu vàng đã nổi bật trước tầm mắt của chúng ta. Ngay từ khoảng cách xa, chung ta đã thấy được khung cảnh hùng vĩ của ngôi chùa được xây dựng trên trung tâm của một cánh đồng xanh mướt với một diện tích năm mẫu. Đây là một công trình xây cất dựa trên sự phối hợp của cả hai ngành kiến trúc, kiến trúc cổ Tây Tạng và một số kiến trúc tân thời. Khởii thủy, tu viện chỉ có một nhà đọc kính mà phải chứa một số lượng đông đảo tu sĩ, nay tu viện đã có đến 12 nhà đọc kinh lớn và số tu sĩ lên đến 5,000 người.

Mọi sinh hoat tại tu viện này đã mang đến cho tôi nhiều thích thú cùng những cảm giác sinh động tươi mát. Tuy nhiên, hình ảnh của người tu sĩ bình dị đã dường như chế ngự mọi sinh hoạt hàng ngày trong tôi một vài khoảnh khắc trước đây.

Sau vài ngày tạm trú, tôi đã quen dần với đời sống nơi tu viện này. Tuy vậy hình ảnh của buổi sáng thức giấc đầu tiên cũng sẽ khó quên trong tôi vì nó hoàn toàn mới lạ so với thế giới bên ngoài. Mới bốn giờ sáng, nhiều loại âm thanh đồng vang lên một lúc buộc tôi phải thức giấc. Không biết âm thanh đến từ đâu, là loại gì, nhưng âm thanh này không để yên cho tôi ngủ thêm. Phải đến một vài phút sau tôi mới nhận được thì ra đó chỉ là những tiếng chuông báo thức đến từ các đồng hồ báo thức của tu sĩ trong chùa. Giờ tụng kinh sáng bắt đầu.

Sau này tôi được biết vắng mặt trong các buổi tụng kinh là một vi phạm lớn theo lụât của chùa và sẽ bị phạt rất nặng. Ngoài ra Gego, thầy giám thị, sẽ có hình phạt cho những ai nói chuyện hay ngáp trong giờ tung kinh, hình phạt có thể thay đổi từ cái nhìn chăm chăm cảnh cáo đến cái déo tai hoặc nặng hơn la đọc nhiều kinh theo số hột của sâu chuổi bồ đề.

Thật là ngạc nhiên với cái yên lặng tại tu viện trong không khí ban ngày. Tôi đã nhận ra thời gian yên tĩnh nhất trong một ngày tại tu viện lại là lúc mà toàn thể tu sĩ đang ngủ trưa. Cái yên lặng của một buổi trưa ở đây đã mang đến cho tôi cái cảm giác của một thành phố lớn sau khi dân cư đã đột ngột bõ ngõ.

Nhưng ngay khi tôi vừa suy nghĩ không biết mọi người đang ở đâu thì chợt hồi chuông báo thức vang lên, và khung cảnh sống động của chùa bỗng dưng trở lại bình thường như thể không có gì đã xảy ra một vài phút trước đây.

Với cái gối nhỏ trong tay, tu sĩ lại hướng về nhà tụng kinh để tiếp tục buổi tụng kinh tối. Thủ tục như thường lệ, điềm danh, vào lớp, giấy phạt cho những người không đúng luật như đi trễ, ngủ gục, nói chuyện v.v... Đúng 5:30 chiều, một lần nữa, họ trở về căn phòng của họ để dùng bữa cơm chiều lúc 6 giờ chiều. Sau đó các tu sĩ này còn phải bỏ ra 2 giờ để dự buổi thảo luận về triết lý đạo Phật tại phía ngoài của nhà tụng kinh.

Sau buổi bàn thảo sôi nổi này, các tu sĩ này một lần nữa di chuyển đến hành lang của toà nhà lớn, nơi này họ sẽ ngồi xuống và tưởng nhớ lại nhũng bài học từ những cuốn kinh dầy cộm. Thời gian này là lúc tu sĩ ngồi yên tĩnh, miệng nhẩm kinh, trí óc nghiền ngẫm những điều phật dạy, và hội lãnh cái cảm giác xuất hồn sang thế giới vô hình khác và trở về với hiện tại.

Bỗng dưng tôi nhận ra đã 12 giờ đêm, và sinh hoạt trong một ngày của tu sĩ Tây Tạng cũng ngừng tại đây, đã đến lúc cuốn kinh Phật dầy đã được đóng lại, mọi người chấm dứt đọc kinh, đèn trong mọi căn phòng lấn lựợt tắt hết , và cuối cùng chỉ còn ánh đèn đường cùng với những con đường vắng lặng dị thường của tu viện.

. Ngôi chùa này đã làm sống lại cái cảm giác dân tộc và nỗi niềm cảm ơn sâu sắc đối với nh ư ững người đã và đang duy trì truyền thống và Phật giáo của dân tộc chúng tôi. Nhưng cái đã làm tôi chiêm ngưỡng bâc nhất là sức mạnh tinh thần và sự khẳng định của những tu sĩ Tây Tạng khi họ lãnh xứ mạng cao cả, bảo tồn những kinh sách của Phật, truyền giảng Phật giáo, duy trì , và làm sống lại những lời giảng cùa Phật Thích Ca mà đã một thời vang vọng trong đất nước Tây Tạng chúng ta, và tại nhiều nước khác.

Minh Ty' dịch

A day in the life of a Tibetan Monk

By Tenzin Pema, The Times of Tibet, Feb 7, 2005

Bylakuppe, India -- The tranquility of any monastery, mingled with the comforting sight of friendly faces around you is, almost always, enough to make one forget the problems and the hatred of the world outside. All my life I have been to innumerous number of monasteries on various occasions. And, each time I have always felt at peace with myself- the kind of feeling that no other place has managed to replace.
One monastery in particular is the Sera Monastery at Bylakuppe, South India. The Sera Monastery, which has about 5000 monks, is one of the most beautiful monasteries in south India. All the way to the monastery from the main bus station, there are a number of small settlements located in the middle of the fields. The Tibetans here mainly grow maize in their farm. And as you make your way to the monastery, you can’t help noticing the lovely green fields, and occasionally one comes across a lone figure, body bent and engrossed in his work.
As you near the Sera monastery, the monastery’s golden rooftop is visible from afar. Even from a distance the monastery is a picturesque sight. Set in the center of the green fields, the monastery occupies more than 5 acres of land. Its buildings are a combination of the more traditional Tibetan art of building with a fair amount of modern compact buildings. The monastery, which initially had just one prayer hall and a handful of monks, now has more than a dozen prayer halls and around 5000 monks.
As you enter the monastery gate and made your way around, you will not help but notice how easy it is to find your way around the monastery. It is in fact, much like a well-planned town where all the roads are well laid out and the houses are in easy reach.
Everything at the monastery fascinated me and seemed to have the ability to make me feel alive. However, it was the life of ordinary Buddhist monks that seemed to outdo everything else that had enthralled me a while ago.
Living in one of the monastery’s many guesthouses, I became familiar with the monks at the Monastery and their lifestyle, but this does not erase the memories of my first morning in the Monastery when everything was new to me. As early as 4 in the morning, I woke up the sounds of different tunes. At that early hour, it was impossible for me to discern where the sounds were coming from and how it could be so loud. It took me a while before I realized that what I was hearing was simple a consortium of various alarm clocks going off at the same time. It was time for the monks to go to the main prayer hall for their morning prayers.
I later learnt, that absenting oneself from these prayer meetings would result in the guilty being heavily fined. And also that if anyone was found either talking or yawning, the result was always a sharp stinging whack on a monk’s shoulders as the Gegou’s (or the supervisor) prayer beads immediately finds its victim or a beetroot red ear, as the Gegou pulls the guilty’s ear.
As days passed in the monastery, I trotted to the prayer hall half asleep on one such morning and found myself immediately alert when I learnt that we would be served with the traditional Tibetan butter tea and phalae (Tibetan bread) during the prayers.
At around seven, its back to their own cells for their breakfast and then soon after, its time to leave for their teacher’s cell, to learn the Buddhist philosophy.
I did not understand how grueling these sessions were, until I saw my cousin listen to the recorded version of his teacher teaching one lesson in Buddhist philosophy. And if I thought, early morning prayers were more than enough for the rest of the afternoon, then I was absolutely wrong. At 9 or so again, the monks again assembled in the main prayer halls for more prayers and finally broke an hour or so later.Lunch was usually brought from the main kitchen in large trolleys. While having their lunch, the monks, who sat in various groups of threes or more according to their ranks or otherwise, almost always seemed to have something to laugh and be happy about. Lunch was also a time for many to hold debates with one another on their morning’s lesson on Buddhist philosophy.
Surprisingly, I found that the quietest time in the monastery was the afternoons, when all the monks had their afternoon nap. The afternoons in the monastery were the quietest time of the day and give you the impression of a huge town, whose residents have suddenly deserted it.
But just when you were wondering where everyone had left, the alarm clocks would sound their wake up calls again and life in the monastery suddenly resume, just as though it had never been interrupted.
With cushions in hand, the monks set off again to the prayer halls for their evening prayers. There again, it is the same procedure of checking identity cards, fining the absentees and punishing the inattentive. At around 5.30, they again return to their cells and have an early dinner at 6pm, after which they have two hours of intensive debates on the Buddhist philosophy, outside the main prayer hall.
After their much heated debate sessions, they find their way to the terrace or the corridors of the buildings, where they sit and memorize huge chunks of Buddhist teachings, from the thick Tibetan Buddhist texts. During these times as one sits and takes in the sounds of monks chanting and memorizing the Buddhist teachings, the feeling of being transported to another world returns.
I found that it was only around midnight, that the Tibetan monk’s day ends; a time when the thick texts are closed, all prayers said and the tube lights in the individual cells switched off, one after another, until finally, it is only the streetlights that illuminate the deserted streets of the monastery.
Being a Tibetan, visiting the three main prayer halls in the Sera Monastery gives one the feeling of enormous pride, for the grandeur of the monastery reminds one of the rich and mystic culture that one belongs to. The place also rekindles the feeling of nationalism and the gratification at our community’s ability to still hold on to our religion and culture. But, what still holds me in awe is the strength and the determination of many monks as they still uphold the religious texts and carry forth the teachings of Buddha; reliving and reviving everything that was once prominent in our land, in a foreign land.
--------Tenzin Pema is currently doing his Post. Grad. in Asian College of Journalism, chennai. He passed out from Christ college, B'lore in 2001, with a degree in Journalism, Psychology and English. He did schooling in Mountain Home school in Coonoor. He is also a part of the Tibetan World Team.

http://www.timesoftibet.com/articles/278/1/A-day-in-the-life-of-a-Tibetan-Monk!
No. 0136
Không khí quanh các ngôi chùa nổi tiếng bị ô nhiểm chất Dioxin

Bangkok, tháng 3, ngày 4, 2005 (TNA)


Ngày hôm qua Bộ Kiểm Soát Môi Sinh Thái Lan ra thông cáo cho biết là không khí tại một số các ngôi chùa nổi tiếng ở Vọng Các đã bị ô nhiểm do hơi khói thoát ra từ ống khói của các lo`hoả táng.
Được biết là ngày 31 tháng Giêng năm nay Thái lan đã phê thuận Hội Nghị Stockolm về việc Xác Nhận Các Chất Ô Nhiễm Hữu Cơ. Thỏa ước về môi sinh này đòi hỏi các quốc gia chấp thuận phải giảm thiểu sự ô nhiểm gây ra bởi 12 hoá chất xử dụng trong nông nghiệp và kỹ nghệ.
Thái Lan đã cấm xử dụng 10 trong số 12 hóa chất này, ngọai trừ chất dioxin va` chất furans là hai chất sinh ra do gỗ đốt cháy không hết.
"Nguồn gốc sinh ra dioxin va furans vẫn co`n là một vấn đề phải đương đầu", Ông Apichai Chvajarernpun, Tổng giám đốc của bộ môi sinh đã tuyên bố ngày hôm qua khi ông nêu ra nguyên nhân chính sinh ra 2 chất dộc này trong không khí là do việc thiêu hũy các chất phế thải và việc hỏa táng.
"Trong quá khứ chúng tôi cũng đã kiểm tra không khí tại các chùa chiền, và biết rằng chất dioxin và furans sinh ra nơi đây vượt quá mức giới hạn ", Ông ta hứa là sẽ đem vấn đề ra thảo luận với thi trưởng Vọng Các.
Dựa theo con số ghi nhận của ông Jaruphong Boonlong, một chuyên viên của bộ Kiểm Soát Môi Sinh, cường độ của 2 chất dioxin và furans phát ra quanh các chùa chiền trong thủ đô cao gấp 170 lần cường độ giới hạn theo tiêu chuẩn quốc tế.
Năm ngôi chùa nổi danh ở trung tâm của thủ đô là nơi không khí bị ô nhiểm nặng nề nhất.
Mặc dù bộ Môi Sinh muốn dời các cơ sở hỏa táng ra khỏi các chùa chiển, nhưng đây là một vấn đề rất tế nhị có thể gây ra hiểu lầm đặc biệt là đối với quần chúng Phật Giáo đông đảo và co' lo`ng sùng tín rất cao tại Thái lan.
Thiện Pháp dịch


Famous temples blamed for dioxin pollution

MCOT Thái Lan, March 04, 2005

BANGKOK, Mar 4 (TNA) - Some of Bangkok's most famous temples are releasing dangerous chemicals into the atmosphere from crematorium chimneys, the Pollution Control Department warned yesterday.
On 31 January Thailand ratified the Stockholm Convention on Persistent Organic Pollutants (POPs), which controls the release of 12 chemicals using principally in agriculture and industry.
Thailand already bans the use of 10 of these, with the exception of dioxins and furans which are released by the incomplete combustion of wood.
"Sources which generate dioxins and furans…are still a problem", Mr. Apichai Chvajarernpun, the department's Director-General, conceded yesterday, naming the incineration of refuse and the cremation of corpses as the major causes.
"We have inspected temples in the past, and found them to be releasing dioxins and furans way in excess of the prescribed levels", he said, promising to raise the issue with the Bangkok governor.
According to figures cited by Mr. Jaruphong Boonlong, an expert from the Pollution Control Department, the release of dioxins and furans by temples in the capital is 170 above the international threshold.
Around five famous temples in the centre of the capital are said to be the worst offenders.
Although the department would like to see crematoriums establish away from temples, it concedes that the issue would be a delicate one which could tread on the religious sensibilities of Thailand's Buddhist population. (TNA)--E006

(


No.0135

Một nhóm nhân viên đại học Ryukoku khảo sát về vùng di tích Phật Giáo tại Afghanistan.


Viết bởi ky' giả Tai Ka WaBaTa, tờ báo Japan Times: March 4, 2005

Viện đại học Ryukoky, một trường Phật Giáo tại Kyoto, và Học Viện Khảo Cổ Học Quốc Gia Afghanistan đã ký kết thoả thuận để nghiên cứu và khai quật di tích xá lợi Phật nằm phía tây của vùng thắng cảnh nổi tiếng Bamiyan mà trưóc đây không lâu đã bị Taliban phá hủy.

Những vùng thắng cảnh này là Keligan, cách Bamiyan 120km, và là Chehel Burj, 6km về phía tây của Keligan.

Dựa theo tin tức từ địa phương, nhiếp ảnh gia Atsushi Naka, một sinh viên cao học của trường đại học Ryukoku, đã tìm thấy nơi này trong tháng 6 năm 2003.

Bamiyan được coi là nơi xa nhứt về hướng tây của Afghanistan mà Phật Giáo được truyền bá tới.

Hai bức tượng Phật lớn tạc trong vách núi trong Bamiyan, một tượng cao 55 m và tượng kia cao 38 m, đã bị phá hủy bởi Taliban vào năm 2001.

Sự tìm tòi, khảo cổ này hy vọng là sẽ cho thấy Phật giáo đã được truyền bá đến nơi đâu, nó cũng bao gồm cả sự liên hệ của những xá lợi Phật trong vùng Turkmenistan.

Trong điều khoản thoả thuận, viện đại học Ryukoku sẽ gửi một nhóm khảo cổ, trong đó có bốn vị học giả, vào tháng 9 đó là bước tiến thứ nhất. Nhóm này sẽ ở tại vùng khai quật vài tháng.

Công việc khai quật không thể làm trong mùa đông bởi vi` khí hậu nơi đây quá lạnh. Vùng thắng cảnh, di tích Keligan bao gồm một ngôi chùa có chiều dài 58 m và chiều rộng 47 m và vùng Chehel Burj thi` co’ một đền đài hi`nh vuông , mỗi chiều 100 met.

Hai vùng này đều có độ cao 2,400 meters trên mặt biển.

Chehel Buri đúng nghĩa là 40 cái tháp.

Thời gian khảo cổ tại vùng này đòi hỏi phải mất từ 5 năm đến 10 năm.

Người đứng đầu nhóm khai quật là Takashi Irisawa, một vị giáo sư của viện đại học, chuyên môn trong ngành nghiên cứu sự truyền bá của Phật giáo trong các nền văn hoá khác biệt của Á Châu. Vị Giáo sư đại học Meiji Yamada, người chuyên môn nghiên cứu về truyền bá tôn giáo đặc biệt trong vùng dọc theo con đường buôn bán tơ lụa.

Irisawa nói rằng ông ta hy vọng xuyên qua công việc khảo cổ này chúng ta có thể biết được thêm về những người đã xây các chùa chiền và đền đài này, biết được sự liên hệ giữa những vùng di tích này và các vùng ảnh hưởng của văn hoá Phật Giáo và biết th êm về vai trò của Phật giáo trong vùng sa mạc này.

Trong năm 2002, nhiếp ảnh gia Naka đã tới Bamiya thăm viếng một mi`nh. Trong thời gian này dân địa phương đã cho ông ta biết về các di tích Phật Giáo ở phía tây.

Trong tháng 6 năm 2003, ông đ ã lái xe hai ngày từ Bamiya và tới Keligan, Chehel Burij để chụp hi`nh.

Trong tháng 10 và tháng 11 năm 2003, Naka tới thăm vùng này một lần nữa, lần này ông đi với Yamada, là người xác nhận vùng này có những di tích Phật Giáo.

Trong thoả thuận giữa viện đại học Ryukoky và Học Viện Khảo Cổ Quốc Gia Afghanistan, thi` trường đại học sẽ trợ cấp tất cả chi phí cho công việc khai quật này trong khi đó Học Viện sẽ cung cấp sự phương tiện liên quan đến các nhu cầu cần thiết.

Hai bên cũng đồng y’ trong việc khuyến khích sự trao đổi giáo dục

Minh Hạnh dịch

Ryukoku University team to explore rare Buddhist ruins in Afghanistan

By TAI KAWABATA , Staff writer

Ryukoku University, a Buddhist school in Kyoto, and Afghanistan's National Institute of Archaeology have signed an accord to survey and excavate newly found Buddhist relics lying west of the famed Bamiyan ruins that were destroyed by the Taliban.
The ruins are in Keligan, 120 km west of Bamiyan, and in Chehel Burj, 6 km west of Keligan.
Photographer Atsushi Naka, a Ryukoku University graduate, came upon them in June 2003 based on a tip from locals.
Bamiyan had till then been regarded as the westernmost point in Afghanistan where Buddhism spread.
The two large Buddhist statues carved into the mountainside in Bamiyan, one 55 meters tall and the other 38 meters, were destroyed by the Taliban in 2001.
The excavation is expected to shed new light on the transmission of Buddhism, including a possible link with Buddhist relics in Turkmenistan.
Under the agreement, Ryukoku University will send an excavation team, including four scholars, in September as a first step. The team will stay at the sites for about a month.
Excavation is impossible in winter because of the extreme cold, according to Ryukoku public relations official Mutsuhito Kumagai.
The Keligan ruins include a temple 58 meters long and 47 meters wide and Chehel Burj is a square fortress, each side 100 meters long.
Both sites are about 2,400 meters above sea level.
Chehel Burj literally means 40 towers.
It is expected to take five to 10 years to fully excavate the sites, according to Kumagai.
The team will be headed by Takashi Irisawa, a professor at the university specializing in the transformation of Buddhism in various Asian cultures. The team also includes professor emeritus Meiji Yamada, who specializes in the transmission of the religion especially along the Silk Road.
Irisawa said he hopes through the excavation to learn about the people who built the temple and fortress, the links the ruins may have with other Buddhist cultural zones and what kind of role the religion played in the desert area.
In 2002, photographer Naka visited Bamiyan alone. At that time, local people told him of the Buddhist ruins to the west.
In June 2003, he traveled by car for two days from Bamiyan and reached Keligan and later Chehel Burj and took photos.
In October and November 2003, Naka visited the sites again, this time with Yamada, who confirmed the ruins are Buddhist.
Under the agreement between Ryukoku University and Afghanistan's National Institute of Archaeology, the school will cover the expenses for the fieldwork while the institute will provide logistic support where feasible.
They also agreed to promote academic exchanges.
The Japan Times: March 4, 2005(C) All rights reserved