No.0213
Tiểu Sử của Hòa thượng Thiền Sư U Pannadipa
Hòa Thượng U Pannadipa là vị Thiền Sư đầu tiên tại Trung Tâm Thiền Mahasi ở Billinge, Anh Quốc từ tháng Bảy năm 1990, khi trung tâm này đầu tiên được mở ra do Ngài Hòa thượng Giáo Thọ Sư U Panditar Bhi Vamsa.
Hòa thượng được sinh ra ở Miến Điện vào tháng Ba năm 1932 tại làng Hninpalei, gần Thaton ở phía dưới Miến Điện. Thân mẫu của Ngài là Bà Daw Hla Thin, và thân phụ là Ông U Kyaw Hmu.
Ngài thọ giới Sadi năm 12 tuổi. Dưới sự giám hộ của ông cậu và cũng là vị Sư trú trì tu viện Yinyein gần đó, Ngài đã học căn bản về Tam Tạng Pali. Đến tuổi 16, Ngài được tiếp tục học ở Thaton cho đến khi đậu ba kỳ thi Pathamange, Pathamalat, và Pathamagyi. Năm 20 tuổi, Ngài thọ giới tỳ kheo và tiếp tục tu học ở Rangoon và Mandalay cho đến khi đậu kỳ thi Dhamma Cariya (Pháp Sư). Ngài đảm nhận chức vụ là Pháp Sư ở Thaton suốt ba năm từ 1956 đến 1959. Từ năm 1960 đến 1966, Ngài tiếp tục công trình hậu đại học khảo cứu về Tam Tạng Pali ở Rangoon và Mandalay.
Năm 1967, Ngài thực tập hành thiền Minh Sát Tuệ dưới sự hướng dẫn của Ngài Hòa thượng Thiền sư Mahasi tại Sasana Yeiktha ở Rangoon. Năm 1968, Ngài Hòa thượng Thiền sư Mahasi chỉ định Ngài đảm trách chức vụ Thiền sư ở Trung Tâm Thiền Viện Gyobintha gần Prome tại Trung tâm Miến Điện. Ngài dạy thiền ở trung tâm này suốt 17 năm cho đến năm 1975.
Năm 1976, Ngài được công nhận là vị Thiền sư Cao cấp Nayaka Kammathana Cariya, dạy Thiền Minh Sát Tuệ cho hàng trăm thiền sinh ở Thiền Viện Mahasi Sasana Yeiktha ở Rangoon.
Năm 1990, Ngài đến Anh Quốc sau chuyến hoằng dương Phật Pháp qua các nước Nepal, Malaysia, Singapore, và Châu Úc, cùng với Ngài Giáo Thọ Sư Hòa thượng Thiền Sư U Pandita của Thiền viện Panditarama. Ngài đến ngụ tại Trung Tâm Thiền Mahasi như là vị Padana Kammathana Cariya ở Billinge. Phần lớn trong suốt tám năm cho đến tháng Mười Một năm 1998, Ngài là nguồn ánh sáng soi đường cho trung tâm thiền, đóng một vai trò quan trọng trong sự duy trì truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, và nâng cao trình độ đạo đức của người Miến Điện cũng như người địa phương. Ngài tỏa ra năng lực Từ và Bi rộng lớn đến tất cả những ai đến với Ngài. Vào tháng Mười Một, Ngài trở về Miến Điện để chăm sóc ông cậu đáng kính mà tuổi đã ngoại cửu tuần đang bị bệnh, là vị trú trì tu viện Yeiknyein, cũng là một tỳ khưu và là thầy của Ngài.
Hòa Thượng Thiền Sư U Pannadipa đã được ban thưởng danh hiệu cao quý là Agga Maha Saddhamma Jotika Dhaja cho công đức hoằng dương Phật Pháp của Ngài tại hải ngoại.
(tinhtan dịch)
(Ghi chú: Kính tham khảo thêm tiểu sử của Hòa thượng Thiền sư U Pannadipa tại website của Dr. Bình Anson: http://www.budsas.org/uni/u-vbud/vbthn095.htm
Hiện nay Ngài là vị trú trì Như Lai Thiền Viện ở San Jose, California, USA và thường hướng dẫn một khóa thiền tích cực vào mùa hè. Năm nay khóa thiền mùa hè sẽ được Hòa thượng hướng dẫn từ ngày 13 đến ngày 21 tháng Tám, 2005. Kính tham khảo thêm chi tiết tại website của Như Lai Thiền Viện: http://www.tathagata.org ).
Biography of Sayadaw U Pannadipa
Sayadaw was the first Meditation Teacher at The Mahasi Meditation Centre in Billinge since July1990, when the centre was first opened by Ovadacariya Sayadawgyi U Panditar Bhi Vamsa.
He was born in the Myanmar year 1294 , on the sixth waning day of Tabaung, a Thursday ( March 1932), to mother Daw Hla Thin , and father U Kyaw Hmu, at Hninpalei village, near Thaton in lower Burma.
He became a Samanera (Novice Monk), at the age of 12. Under the tutelage of his own grand uncle , who was the abbot of Yinyein monastry nearby, he learned the basic Tipitakas . At the age of 16 he continued his studies at Thaton, till he passed the Pathamange, Pathamalat and Pathamagyi exams. At the age of 20 , he became a full fledged monk and continued to study in Rangoon and Mandalay , till he passed his Dhamma Cariya ( Teacher of Dhamma) examination . He served as a Teacher of Dhamma, at Thaton for three years from 1956 to 1959. From 1960 to 1966 , he continued post graduate studies of the Tripitakas in Rangoon and Mandalay.
In 1967, he practised Vipassana Meditation at Sasana Yeiktha in Rangoon under the Mahasi Sayadaw . In 1968, he was appointed by the Mahasi Sayadaw as Meditation Teacher of Gyobintha Meditation Centre near Prome in Central Burma. He worked at the centre for 17 years till 1975.
In 1976 , he was appointed Nayaka Kammathana Cariya at the Mahasi Sasana Yeiktha in Rangoon, where he taught Vipassana Meditation to hundreds of yogis.
In 1990, Sayadaw came to the UK after an itinerary of Dhamma Dhuta trips to Nepal , Malaysia , Singapore and Australia, accompanying Ovadacariya Sayadaw U Pandita of Panditarama. He came to stay in the Mahasi Meditation Centre in Billinge , as Padana Kammathana Cariya . For the most part of eight years until November 1998, Sayadaw was the leading light at the Centre, playing a key role in upholding Theravada Buddhist traditions , and uplifting the moral standards of the Burmese and local people alike. He has shown great Metta and Karuna to all those who came in contact with him. In November , he returned to Burma to nurse his ailing great uncle , the abbot of Yeiknyein, in his late nineties, who is also a monk and his teacher.
For his Dhamma Dhuta work abroad he was recently awarded the coveted title of Agga Maha Saddhamma Jotika Dhaja.
(tinhtan se dich)
http://web.ukonline.co.uk/buddhism/billing4.htm
Tiểu Sử của Hòa thượng Thiền Sư U Pannadipa
Hòa Thượng U Pannadipa là vị Thiền Sư đầu tiên tại Trung Tâm Thiền Mahasi ở Billinge, Anh Quốc từ tháng Bảy năm 1990, khi trung tâm này đầu tiên được mở ra do Ngài Hòa thượng Giáo Thọ Sư U Panditar Bhi Vamsa.
Hòa thượng được sinh ra ở Miến Điện vào tháng Ba năm 1932 tại làng Hninpalei, gần Thaton ở phía dưới Miến Điện. Thân mẫu của Ngài là Bà Daw Hla Thin, và thân phụ là Ông U Kyaw Hmu.
Ngài thọ giới Sadi năm 12 tuổi. Dưới sự giám hộ của ông cậu và cũng là vị Sư trú trì tu viện Yinyein gần đó, Ngài đã học căn bản về Tam Tạng Pali. Đến tuổi 16, Ngài được tiếp tục học ở Thaton cho đến khi đậu ba kỳ thi Pathamange, Pathamalat, và Pathamagyi. Năm 20 tuổi, Ngài thọ giới tỳ kheo và tiếp tục tu học ở Rangoon và Mandalay cho đến khi đậu kỳ thi Dhamma Cariya (Pháp Sư). Ngài đảm nhận chức vụ là Pháp Sư ở Thaton suốt ba năm từ 1956 đến 1959. Từ năm 1960 đến 1966, Ngài tiếp tục công trình hậu đại học khảo cứu về Tam Tạng Pali ở Rangoon và Mandalay.
Năm 1967, Ngài thực tập hành thiền Minh Sát Tuệ dưới sự hướng dẫn của Ngài Hòa thượng Thiền sư Mahasi tại Sasana Yeiktha ở Rangoon. Năm 1968, Ngài Hòa thượng Thiền sư Mahasi chỉ định Ngài đảm trách chức vụ Thiền sư ở Trung Tâm Thiền Viện Gyobintha gần Prome tại Trung tâm Miến Điện. Ngài dạy thiền ở trung tâm này suốt 17 năm cho đến năm 1975.
Năm 1976, Ngài được công nhận là vị Thiền sư Cao cấp Nayaka Kammathana Cariya, dạy Thiền Minh Sát Tuệ cho hàng trăm thiền sinh ở Thiền Viện Mahasi Sasana Yeiktha ở Rangoon.
Năm 1990, Ngài đến Anh Quốc sau chuyến hoằng dương Phật Pháp qua các nước Nepal, Malaysia, Singapore, và Châu Úc, cùng với Ngài Giáo Thọ Sư Hòa thượng Thiền Sư U Pandita của Thiền viện Panditarama. Ngài đến ngụ tại Trung Tâm Thiền Mahasi như là vị Padana Kammathana Cariya ở Billinge. Phần lớn trong suốt tám năm cho đến tháng Mười Một năm 1998, Ngài là nguồn ánh sáng soi đường cho trung tâm thiền, đóng một vai trò quan trọng trong sự duy trì truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, và nâng cao trình độ đạo đức của người Miến Điện cũng như người địa phương. Ngài tỏa ra năng lực Từ và Bi rộng lớn đến tất cả những ai đến với Ngài. Vào tháng Mười Một, Ngài trở về Miến Điện để chăm sóc ông cậu đáng kính mà tuổi đã ngoại cửu tuần đang bị bệnh, là vị trú trì tu viện Yeiknyein, cũng là một tỳ khưu và là thầy của Ngài.
Hòa Thượng Thiền Sư U Pannadipa đã được ban thưởng danh hiệu cao quý là Agga Maha Saddhamma Jotika Dhaja cho công đức hoằng dương Phật Pháp của Ngài tại hải ngoại.
(tinhtan dịch)
(Ghi chú: Kính tham khảo thêm tiểu sử của Hòa thượng Thiền sư U Pannadipa tại website của Dr. Bình Anson: http://www.budsas.org/uni/u-vbud/vbthn095.htm
Hiện nay Ngài là vị trú trì Như Lai Thiền Viện ở San Jose, California, USA và thường hướng dẫn một khóa thiền tích cực vào mùa hè. Năm nay khóa thiền mùa hè sẽ được Hòa thượng hướng dẫn từ ngày 13 đến ngày 21 tháng Tám, 2005. Kính tham khảo thêm chi tiết tại website của Như Lai Thiền Viện: http://www.tathagata.org ).
Biography of Sayadaw U Pannadipa
Sayadaw was the first Meditation Teacher at The Mahasi Meditation Centre in Billinge since July1990, when the centre was first opened by Ovadacariya Sayadawgyi U Panditar Bhi Vamsa.
He was born in the Myanmar year 1294 , on the sixth waning day of Tabaung, a Thursday ( March 1932), to mother Daw Hla Thin , and father U Kyaw Hmu, at Hninpalei village, near Thaton in lower Burma.
He became a Samanera (Novice Monk), at the age of 12. Under the tutelage of his own grand uncle , who was the abbot of Yinyein monastry nearby, he learned the basic Tipitakas . At the age of 16 he continued his studies at Thaton, till he passed the Pathamange, Pathamalat and Pathamagyi exams. At the age of 20 , he became a full fledged monk and continued to study in Rangoon and Mandalay , till he passed his Dhamma Cariya ( Teacher of Dhamma) examination . He served as a Teacher of Dhamma, at Thaton for three years from 1956 to 1959. From 1960 to 1966 , he continued post graduate studies of the Tripitakas in Rangoon and Mandalay.
In 1967, he practised Vipassana Meditation at Sasana Yeiktha in Rangoon under the Mahasi Sayadaw . In 1968, he was appointed by the Mahasi Sayadaw as Meditation Teacher of Gyobintha Meditation Centre near Prome in Central Burma. He worked at the centre for 17 years till 1975.
In 1976 , he was appointed Nayaka Kammathana Cariya at the Mahasi Sasana Yeiktha in Rangoon, where he taught Vipassana Meditation to hundreds of yogis.
In 1990, Sayadaw came to the UK after an itinerary of Dhamma Dhuta trips to Nepal , Malaysia , Singapore and Australia, accompanying Ovadacariya Sayadaw U Pandita of Panditarama. He came to stay in the Mahasi Meditation Centre in Billinge , as Padana Kammathana Cariya . For the most part of eight years until November 1998, Sayadaw was the leading light at the Centre, playing a key role in upholding Theravada Buddhist traditions , and uplifting the moral standards of the Burmese and local people alike. He has shown great Metta and Karuna to all those who came in contact with him. In November , he returned to Burma to nurse his ailing great uncle , the abbot of Yeiknyein, in his late nineties, who is also a monk and his teacher.
For his Dhamma Dhuta work abroad he was recently awarded the coveted title of Agga Maha Saddhamma Jotika Dhaja.
(tinhtan se dich)
http://web.ukonline.co.uk/buddhism/billing4.htm
0 Comments:
Đăng nhận xét
<< Home